Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

CÁC QUAN HỆ SÔ VIẾT - TRUNG QUỐC VÀ CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC - VIÊT NAM NĂM 1979


20/12/2012

http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacBruceElleman1979.htm


CÁC TÀI LIỆU VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT-TRUNG NĂM 1979

Ngô Bắc Gió-O

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch bài tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas. Vì là văn nói, nên các chú thích về nguồn tài liệu tham khảo được ghi ngay sau dữ kiện nơi thân bài, thay vì được sắp xếp như các cước chú ở cuối bài văn viết. ***



Tác giả Gerald Segal, trong quyển sách của ông nhan đề Defending China, đã kết luận rằng cuộc chiến tranh năm 1979 của Trung Quốc đánh Việt Nam là một sự thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã thất bại không buộc được một sự triệt thoái của Việt Nam ra khỏi [Căm Bốt], đã thất bại không chấm dứt được các vụ đụng độ ở biên giới, đã thất bại không tạo được sự nghi ngờ trên sức mạnh của quyền lực Sô Viết, đã thất bại không xóa tan được hình ảnh về Trung Quốc như một con hổ bằng giấy, và đã thất bại không lôi kéo được Hoa Kỳ vào một liên hiệp chống Sô Viết”. Trong một nỗ lực để thách đố lại quan điểm này cho rằng chính sách của Bắc Kinh đã là một sự thất bại, bài viết này sẽ gắng sức để tái lượng giá vai trò trung tâm mà các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết đã đóng giữ trong quyết định của Trung Quốc để tấn công Việt Nam. Quan trọng nhất, bài viết sẽ cố gắng trình bày rằng việc ấn định thời biểu cho cuộc tấn công hôm 17 Tháng Hai của Trung Quốc vào Việt Nam được nối kết với sự kỷ niệm hàng năm lần thứ 29 bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc và Sô Viết năm 1950. Mặt trận Lạng Sơn tháng 2, 1979 Người ta phải nhớ lại rằng vào ngày 14 Tháng Hai, 1950 Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đã ký kết một hiệp ước có hiệu lực 30 năm bao gồm cả các nghị định thư bí mật ủng hộ vai trò của Liên Bang Sô Viết (LBSV) như nước lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới. Khi sau này Mạc Tư Khoa cự tuyệt không tái thương thảo về các sự tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Sô Viết, sự kiện này đã dẫn dắt đến các vụ đụng độ ở biên giới Trung Quốc – Sô Viết, quan trọng nhất là vào cuối thập niên 1960. Các học giả Tây Phương tất cả đều thường quên rằng ngay trong suốt thời kỳ căng thẳng này giữa Trung Quốc và Sô Viết, bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc-Sô Viết 1950 vẫn còn đầy đủ hiệu lực trong suốt toàn thể thời kỳ của sự xáo trộn. Ít nhất từ quan điểm của Bắc Kinh, hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết 1950 đã là một công cụ quan trọng xuyên qua đó Mạc Tư Khoa đã cố gắng hành xử “bá quyến” của nó trên Trung Quốc. Mạc Tư Khoa rõ ràng quan tâm đến những gì có thể xẩy ra khi hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết đáo hạn 30 năm của nó. Bắt đầu từ năm 1969, LBSV thường xuyên thúc dục Trung Quốc thay thế hiệp ước 1950 bằng một hiệp định mới. Trong năm 1978, các lực lượng Sô Viết được gia tăng dọc các biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Trung Quốc – Mông Cổ. Mạc Tư Khoa cũng đã tìm cách buộc Bắc Kinh phải đi đến sự thỏa thuận bằng việc tăng cường các quan hệ ngoại giao với Hà Nội, ký kết một hiệp ước phòng thủ hai mươi lăm năm với Việt Nam vào ngày 3 Tháng Mười Một, 1978. Tuy nhiên, thay vì lùi bước, Trung Quốc đã loan báo ý định của nó nhằm xâm lăng Việt Nam vào ngày 15 Tháng Hai, 1979, ngay chính ngày đầu tiên mà nó có thể chấm dứt một cách hợp pháp Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết 1950 và Trung Quốc đã tấn công ba ngày sau đó. Khi Mạc Tư Khoa không can thiệp, Bắc Kinh đã tuyên bố công khai rằng LBSV đã không giữ đúng nhiều lời hứa hẹn của LBSV nhằm trợ giúp Việt Nam. Sự thiếu sót của LBSV để ủng hộ Việt Nam khiến cho Trung Quốc bạo dạn hơn để loan báo hôm 3 Tháng Tư, 1979 rằng nó đã có ý định chấm dứt bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc và Sô Viết năm 1950. Thay vì làm việc dưới sự giả định rằng cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự thất bại hoàn toàn, bài viết này sẽ cố gắng giải trình rằng một trong các mục đích ngoại giao chính yếu đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày các sự cam kết của Sô Viết về sự ủng hộ quân sự cho Việt Nam là một sự lừa bịp. Nhìn dưới ánh sáng này, chính sách của Bắc Kinh thực sự đã là một sự thành công về ngoại giao, bởi vì Liên Bang Sô Viết đã không tích cực can thiệp, chính vì thế phô bày các giới hạn thực tế của thỏa ước quân sự giữa Sô Viết – Việt Nam. Kết quả, bài viết này sẽ nêu ý kiến rằng Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược bằng việc tối thiểu hóa khả tính tương lai về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận chống lại LBSV và Việt Nam và một chiến thắng ngoại giao bằng việc chấm dứt Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Bài viết này cũng sẽ tái lượng giá lời tuyên bố của Bắc Kinh rằng sự thiếu sót không can thiếp của LBSV chống Trung Quốc đã chứng tỏ rằng LBSV chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy”. Các tài liệu văn khố được giải mật gần đây tại LBSV có chiều hướng ủng hộ cho lời tuyên bố của Trung Quốc, nêu lên câu hỏi quan trọng là liệu vào năm 1979 Bắc Kinh đã sẵn xác định một cách chính xác các triệu chứng ở Viễn Đông cho sự suy đồi nội bộ của Mạc Tư Khoa – cùng sự suy đồi sau hết dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sô Viết năm 1991 – vài năm trước khi bằng chứng tương tự của sự suy đồi này trở nên khả cung tại chiến trường Âu Châu. Nếu đúng thế, khi đó có khả tính hiện hữu rằng “bước khởi đầu của sự kết thúc” Cuộc Chiến Tranh Lạnh thực sự đã xảy ra tại Á Châu. Lược Sử Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô ViếtCho Đến Cuối Thập Niên 1960 Các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết cho đến cuối thập niên 1960 bị hư hỏng không chỉ bởi sự bất đồng sâu sắc về quy chế của vùng Ngoại Mông, mà còn bởi nhiều cuộc tranh chấp lãnh thổ dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Trong thực tế, các sự xung đột này làm ung thối bên dưới bề mặt của các quan hệ Nga – Hoa trong hơn một thế kỷ, suốt từ khi Đế Quốc Nga đã ép buộc Trung Quốc phải ký kết một loạt các hiệp ước nhượng lại cho Nga các vùng đất bao la. Theo quyển sách sắp xuất bản nhan đề Imperial Rivals (Các Đối Thủ Đế Quốc) của S. C. M. Paine, “Đối với Trung Hoa, các sự mất mát lãnh thổ thực sự thì khổng lồ: một khu vực vượt quá diện tích bên phía đông sông Mississippi của Hoa Kỳ đã chính thức trở thành lãnh thổ của Nga hay, trong trường hợp của Ngoại Mông, là vùng đất bảo hộ của Sô Viết”. Tiếp theo sau cuuộc Cách Mạng năm 1949 của Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã du hành sang Mạc Tư Khoa để điều đình một hiệp ước chính thức với Stalin. Sau hai tháng, Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết được hoàn tất và ký kết hôm 14 Tháng Hai, 1950. Thời hạn của bản hiệp ước này là ba mươi năm và điều khoản số sáu quy định một cách đặc biệt rằng nếu không bên kết ước nào loan báo ý định của mình muốn chấm dứt bản hiệp ước trong năm sau cùng của nó, khi đó liên minh sẽ tự động được triển hạn cho năm năm nữa. Trong thực tế, các phiên bản được ấn hành của bản hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết này đã không bao hàm nhiều nghị định thư bí mật. Tạp Chí Dự Án Lịch Sử Quốc Tế Về Chiến Tranh Lạnh, số Mùa Đông 1995 bao gồm một bài viết gồm sự trình bày của họ Mao về các cuộc thương thảo Trung Quốc – Sô Viết bí mật: Trong các cuộc thương thảo, theo đề xướng của Stalin đã có một nỗ lực được tiến hành bởi Liên Bang Sô Viết để đảm nhận quyền sở hữu độc nhất Đường Hỏa Xa Changchun (tức Harbin, ?Trường Xuân) của Trung Quốc. Tuy nhiên, sau đó một quyết định đã được đưa ra về việc khai thác chung …Đường Hỏa Xa, ngoài những gì mà CHNDTQ đã trao cho LBSV căn cứ hải quân tại Hải Cảng Port Arthur, và bốn công ty cổ phần hỗn hợp được thiết lập tại Trung Quốc. Theo đề xuất của Stalin, … Mãn Châu và Tân Cương trong thực tế được biến thành các khu vực chịu ảnh hưởng của Sô Viết. Chính vì thế, mặc dù các phần công bố của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã được hay biết từ lâu, một số lượng không được xác định các nghị định thư bí mật cũng đã được ký kết, cho đên nay, các bản sao của các nghị định thư này chưa hề được ấn hành. (Bruce Elleman, “The End of Extraterritoririality in China: The Case of the Soviet Union, 1919-1960”, Republican China (sắp được ấn hành, Mùa Xuân 1996). Vào ngày 15 Tháng Hai, 1950, họ Mao cũng miễn cưỡng đồng ý “quy chế độc lập” của MPR (Mongolian People’s Republic: Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ: CHNDMC). Tuy nhiên, sự nhìn nhận này còn lâu mới là việc thừa nhận sự độc lập hoàn toàn của Mông Cổ ra khỏi Trung Quốc, bởi họ Mao tin tưởng một cách vững chắc rằng chính phủ Sô Viết trước đây đã hứa hẹn trao trả Mông Cổ lại cho Trung Quốc. Dựa trên các sự phàn nàn sau này của họ Mao, họ Mao hẳn đã phải nhận được các sự bảo đảm của Stalin về quy chế của Mông Cổ, cũng như về vị trí chính xác của các biên giới Trung Quốc – Mông Cổ và Trung Quốc – Sô Viết, sẽ được thảo luận trong các phiên họp tương lai. Chính vì thế, sự cự tuyệt của Mạc Tư Khoa để mở các cuộc thương thảo với Bắc Kinh sau rốt đã dẫn đến các sự đụng độ biên giới trong các thập niên 1950 và 1960. Mặc dù biên giới Trung Quốc – Mông Cổ đã được giải quyết trong năm 1962, họ Mao đã công khai tố cáo các sự xâm lấn của Sô Viết vào lãnh thổ của Trung Quốc và ông ta đã phản đối sự kiểm soát của Sô Viết tại Mông Cổ: “Liên Bang Sô Viết, lấy cớ bảo đảm cho nền độc lập của Mông Cổ, thực sự đã đặt xứ sở này dưới sự thống trị của nó”. Vào cuối thập niên 1960, trong một loạt các biến cố biên giới dọc các con sông Ussuri và Amur, QĐGPNDTQ đã biểu lộ một sự kiên cường đáng ngạc nhiên chống lại Hồng Quân [Sô Viết]. Các vụ xung đột này này có phạm vi nhỏ và kết cuộc cho thấy là không ngã ngũ, nhưng chúng đã dẫn dắt đến các vụ xung đột lãnh thổ sau này tại Tân Cương dọc theo biên giới của Trung Quốc với LBSV. Mặc dù sự căng thẳng trong các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết thì lớn lao đên nỗi nhiều học giả Tây Phương đã đề cập đrến nó như một “sự rạn nứt”, bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 vẫn tiếp tục hiện hữu. Trong thực tế, bản hiệp ước này, bao gồm cả các điều khoản đã được phổ biến một cách công khai và các nghị định thư bí mật, vẫn còn là nền tảng trên đó các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết dựa vào. Tuy nhiên, nền tảng này đã bất ổn định ngay từ lúc khởi đầu, bởi LBSV đã từ chối không chịu giao hoàn các phần đất giành đoạt phi nghĩa của Nga thời Sa Hoàng cho giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc. Điều có thể tranh luận rằng chính điều này, hơn bất kỳ lý do nào khác, đã dẫn dắt các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến việc kết án “chủ nghĩa bá quyền” của Sô Viết tại vùng Viễn Đông. Cũng chính vấn đề này đã nhất thiết làm chua chát các quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam trong thập niên 1970. Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô Viết Trong Thập Niên 1970 Các cuộc tranh chấp biên giới Trung Quốc – Sô Viết hồi cuối thập niên 1960 đặc biệt đáng lo âu cho Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, bởi cả LBSV lẫn Trung Quốc giờ đây đều là các nước có vũ khí hạt nhân; rõ ràng một sự đồng thuận không chính thức đã được đạt tới là không bên nào sẽ vận dụng đến không lực. (Christian F. Ostermann, “New Evidence on the Sino-Soviet Border Dispute”, Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 186-193). Tuy nhiên, các vụ xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết này đã có các tác động xã hội khổng lồ, buộc cả hai nước phải chuyển hướng các tài nguyên khan hiếm vào việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân khả hữu hay cho sự leo thang quân sự tương lai dọc theo các biên giới chung của hai nước. Niềm tin tưởng mới tìm thấy của QĐGPNDTQ rằng nó có thể đối đầu với Hồng Quân cũng đã mang lại cho Bắc Kinh cơ hội trong năm 1971 để chấp nhận một đề nghị chính sách ngoại giao mới bằng việc phát huy các quan hệ thân hữu với Hoa Kỳ. Ngoài ra, Trung Quốc đã rán sức để cải thiện các quan hệ của nó với Nhật Bản, đã ký kết một hiệp ước trong Tháng Tám 1978 rõ ràng có tính chất chỉ trích chính sách ngoại giao của Liên Bang Sô Viết tại Á Châu bằng cách kết án một cách cá biệt “chủ nghĩa bá quyền”. Sau cùng, các căng thẳng Trung Quốc – Sô Viết cũng đã làm sinh sôi một số các cuộc chiến tranh ủy nhiệm tại Đông Nam Á, chẳng hạn như cuộc xung đột cuối thập niên 1970 giữa Căm Bốt và Việt Nam, cũng như buộc Trung Quốc [sỉc, nhiều phần là LBSV mới đúng nghĩa của câu văn, chú của người dịch] phải chấp nhân vai trò của Trung Quốc như một quyền lực trong vùng, được thể hiện rõ nhất bằng cuộc xâm lăng của nó trong năm 1979 vào Việt Nam để triệt hạ ảnh hưởng gia tăng của LBSV. Trong suốt thập niên 1970, các căng thẳng Trung Quốc – Sô Viết vẫn còn ở cao độ. Trong thời kỳ này, Mạc Tư Khoa đã cố gắng để thuyết phục Bắc Kinh thương thảo một hiếp định mới sẽ hoặc ủng hộ, hay ngay cả thay thế, cho Hiệp Ước Năm 1950 giữa Trung Quốc – Sô Viết. Khởi đầu trong năm 1969 và 1970, Mạc Tư Khoa đã đề nghị rằng hai phía hứa hẹn không tấn công nhau, và đặc biệt không bao giờ vận dụng tới các vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh không bày tỏ bất kỳ sự quan tâm nào đến sự thỏa thuận này, Mạc Tư Khoa đã đề nghị trong năm 1971 rằng hai nước sẽ ký kết một hiệp ước mới sẽ cùng từ bỏ [sử dụng] vũ lực. Sau đó, trong năm 1973, Mạc Tư Khoa đã bày tỏ sự quan tâm của nó bằng việc đề nghị một cách cá biệt rằng hai nước ký kết một thỏa ước bất tương xâm; Bắc Kinh tiếp tục tảng lờ các đề xuất của Mạc Tư Khoa. Khi sự chấm dứt thời hạn 30 năm Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết đến gần, các nỗ lực của LBSV để thay thế bản hiệp ước này đã gia tăng một cách quyết liệt. Thí dụ, vào ngày 24 Tháng Hai, 1978, Mạc Tư Khoa đã đề nghị một cách công khai rằng hai chính phủ công bố một tuyên bố về các nguyên tắc sẽ điều hành các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Lời tuyên bố về các nguyên tắc này sẽ bao gồm: 1} sự bình đẳng, 2) sự tôn trọng hỗ tương chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, 3) việc bất can thiệp vào các công việc nội bộ của nhau, và 4) việc không sử dụng vũ lực. Mạc Tư Khoa rõ ràng đã hy vọng rằng một bản tuyên bố như thế có thể được dùng để thay thế cho bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 để điều hòa các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Mục đích tối hậu tcủa các đề nghị của LBSV, tuy thế, rõ ràng để giới hạn, hay có lẽ còn làm giảm bớt, ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc khắp Á Châu. (Theo tác giả Chang Pao-min, khía cạnh này trong các chính sách của Sô Viết đối với Trung Quốc thì có tính chất hấp dẫn nhất đối với phía Việt Nam, còn trích dẫn một viên chức Việt Nam có tuyên bố như sau: “Có một quyền lợi Sô Viết mạnh mẽ cụ thể nhất trùng hợp với các quyền lợi của Việt Nam – giảm bớt ảnh hưởng của Trung Quốc tại phần đất này của thế giới”. Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47). Tuy nhiên, Bắc Kinh đã cự tuyệt tất cả các đề nghị của Mạc Tư Khoa, và trong suốt thập niên 1970, sự kết án của Trung Quốc đối với LBSV đã trở nên lớn giọng hơn. Thí dụ, trong Tháng Hai 1974, Mao Trạch Đông đã công khai kêu gọi một liên hiệp “thế giới thứ ba” chống lại điều được gọi là “thế giới thứ nhất”, trong trường hợp này gồm cả LBSV lẫn Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi có sự từ trần của họ Mao, một bản tin ngày 1 Tháng Mười Một 1977 của tờ Nhân Dân Nhật Báo, đã xác định LBSV là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc trong khi Hoa Kỳ giờ đây được xem là một đồng minh. Tất cả các nước cộng sản – kể cả đặc biệt Việt Nam (“Sự suy đồi trong các quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc sau năm 1975 và sự xếp hàng thân Sô Viết hiện thời của Việt Nam có thể dõi tìm nơi sự kháng cự của Việt Nam trước áp lực của Trung Quốc buộc Việt Nam phải lựa chọn phe cánh”, Ramesh Thaku[r] và Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin’s Press, 1992), 287) – cũng đều được xem là các đồng minh tiềm năng trong một “mặt trận thống nhất” đề nghị chống lại LBSV. Sau cùng, vào ngày 26 Tháng Ba, 1978, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã đòi hỏi rằng Mạc Tư Khoa, ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của “các khu vực tranh chấp” dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết, phải triệt thoái hoàn toàn các bộ đội Sô Viết ra khỏi Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, cũng như rút quân lùi xa khỏi toàn thể biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Trong sự đáp ứng với các đòi hỏi của Trung Quốc, Leonid Brezhnev, Tổng Bí Thư Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết (ĐCSLBSV), đến thăm viếng vùng Siberia (Tây Bá Lợi Á) hồi đầu Tháng Tư 1978, và có loan báo rằng trang thiết bị mới, tân tiến hơn đã được cung cấp cho các đơn vị hỏa tiễn dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Các vũ khí mới này, Brezhnev loan báo, sẽ là công cụ trong việc “bảo toàn cho chính chúng ta và các nước thân hữu xã hội chủ nghĩa của chúng ta chống lại sự xâm lược khả hữu, bất kể nguồn gốc từ đâu”. Không lâu sau đó, vào ngày 12 Tháng Tư, 1978, Ulan Bator [thủ đô của Mông Cổ, chú của người dịch] cũng công khai phản đối các đòi hỏi của Bắc Kinh, tuyên bố rằng các binh sĩ Sô Viết bổ túc đã được đồn trú dọc biên giới Trung Quốc – Mông Cổ theo lời yêu cầu của Mông Cổ nhằm dáp lại các sự tập trung bộ đội Trung Quốc gia tăng tại phía nam biên giới. Như các biến cố này đã phô bày hoàn toàn rõ ràng, vào năm 1978 các căng thẳng biên giới Trung Quốc – Sô Viết đã gia tăng cường độ một cách mạnh mẽ, chính yếu bởi các sự tập trung binh sĩ Sô Viết nhiều hơn dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết và tại Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ. Ở một mức độ rộng lớn hơn, tình trạng này có thể được giải thích bởi các nỗ lực liên tục của Mạc Tư Khoa nhằm áp lực Bắc Kinh không được chấm dứt bản Hiếp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950, vốn có thể bị kết thúc ngay trong lần đầu tiên vào năm 1979, hay – tốt hơn nữa – thương thảo một hiệp ước mới nhằm phác họa các nguyên tắc trên đó các quan hệ tương lai của Trung Quốc – Sô Viết sẽ được đặt đinh. Lời loan báo của Brezhnev rằng ông ta có ý định sử dụng các lực lượng Sô Viết chống lại Trung Quốc nhân danh “các nước thân hữu xã hội chủ nghĩa” của Mạc Tư Khoa cũng là một sự cảnh cáo cho Bắc Kinh không được nhúng tay vào CHNDMC cũng như các đồng minh của Mạc Tư Khoa tại Đông Nam Á. Trung Quốc đã không chỉ không nhượng bộ dưới áp lực quân sự và ngoại giao của LBSV, mà Bắc Kinh kế tiếp đã cố gắng sử dụng áp lực ngoại giao lên trên Mạc Tư Khoa bằng cách gắng sức để củng cố các quan hệ của nó với cả Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điều có thể gây tranh luận rằng chính sách của Bắc Kinh đã thành công hơn trong hai đường lối, đưa đến việc Bắc Kinh đã ký kết hai hiệp định đánh dấu lịch sử với cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Đông Kinh. Đối với Mạc Tư Khoa, điều hẳn phải xem rõ ràng rằng các hiệp định mới của Trung Quốc là nhằm chống lại LBSV, bởi – ít nhất trong trường hợp bản hiệp ước Trung – Nhật – hai bên đã kết án một cách cá biệt “chủ nghĩa bá quyền”, một khẩu hiệu hay được Trung Quốc sử dụng để chỉ chính sách bành trướng của Sô Viết. Sự đáp ứng của LBSV là tăng cường các quan hệ ngoại giao của nó với tất cả các nước Đông Nam Á giáp ranh với Trung Quốc, và quan trọng nhất trong các nước đó, Việt Nam. Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô Viết và Việt Nam Cho Đến Tháng Hai Năm 1979 Mặc dù Trung Quốc không phải là một nước tham dự vào cuộc xung đột Việt Nam trong các thập niên 1960 và 1970, sự ủng hộ vật liệu và kinh tế của Trung Quốc cho Việt Nam đã đóng một vai trò quan yếu. Trung Quốc đã không chỉ gửi các binh sĩ sang Việt Nam để trợ giúp việc duy trì các tuyến tiếp tế, sự ước lượng của Bắc Kinh về sự hỗ trợ của nó cho Hà Nội từ 1950 đrến 1978 đã vượt quá 20 tỷ [MỹKim?] (King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA, Hoover Institution Press, 1987). Vì thế, thật không khó khăn để hiểu rằng tại sao Bắc Kinh lại có thể động lòng trước các quan hệ được cải thiện giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nộivào cuối thập niên 1970. Điều này đặc biệt đúng sau khi hai nước ký kết một hiệp ước phòng thủ hỗ tương vào ngày 3 Tháng Mười Một năm 1978 đặc biệt nhắm vào Trung Quốc. Theo một học giả, liên minh Sô Viết – Việt Nam này biến Việt Nam thành “mấu chốt” trong “nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc” của LBSV. (Robert A. Scalapino, “The Political Influence of the USSR in Asia”, trong sách biên tập bởi Donald S. Zagoria, Soviet Policy in East Asia (New Haven, Yale University Press, 1982), 71). Vì thế, theo quan điểm của Bắc Kinh, mưu toan của mạc Tư Khoa nhằm bao vây Trung Quốc về mặt ngoại giao rõ ràng trên bờ của sự thành công. Sự nhận thức này đã châm ngòi cho cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam trong Tháng Hai 1979. Mặc dù các quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 nói chung tốt đẹp, các sự khác biệt về chính sách giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xa cách hơn sau sự sụp đổ của Sàigòn hồi Tháng Tư 1975. Trong Tháng Chín năm đó, Lê Duẩn, tổng bí thứ của ĐCSVN, đã du hành sang Bắc Kinh và trong hàng loạt các cuộc gặp gỡ sau khi Lê Duẩn đến nơi, điều trở nên rõ ràng rằng Trung Quốc rất quan tâm về các quan hệ chặt chẽ của Việt Nam với LBSV. Mặc dù các quan hệ tiếp tục xấu đi trong những năm kế tiếp, sự rạn nứt giữa Trung Quốc và Việt Nam đầu tiên chỉ trở nên rõ ràng khi hàng nghìn dân gốc Hoa bắt đầu chạy trốn khỏi Việt Nam trong mùa xuân và mùa hạ năm 1978. Ngoài ra, các sự tranh chấp lãnh thổ tại Quần Đảo Trường sa, cũng như trên cuộc xâm lăng gần đó của Việt Nam vào Căm Bốt, cũng đã làm gia tăng các sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong khi đó, các dấu hiệu gia tăng của sự hợp tác Sô Viết – Việt Nam cũng đã xuất hiện trong mùa hè 1978, khi Việt Nam yêu cầu trở thành một thành viên của khối COMECON. Ngoài ra, các nguồn tin chính phủ tại Hoa Kỳ có tường thuật rằng vào Tháng Tám 1978 có đến 4000 cố vấn Sô Viết có mặt tại Việt Nam. Trong Tháng Chín 1978, LBSV khởi sự việc thực hiện các chuyến chở vũ khí nhiều hơn sang Việt Nam, cả bằng đường hàng không lẫn đường biển, bao gồm “máy bay, hỏa tiễn, xe tăng, và đạn dược”. Sau cùng, tất cả các dấu hiệu này của việc cải thiện các quan hệ Sô Viết – Việt Nam đã thành tựu vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978, khi Việt Nam và LBSV ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác. Không có gì nghi ngờ rằng bản hiệp ước này được nhắm vào Trung Quốc, bởi điều thứ sáu tuyên bố rằng Việt Nam và LBSV sẽ “tức thời tham khảo lẫn nhau” nếu một bên bị “tấn công hay bị đe dọa tấn công … nhằm loại trừ mối đe đọa đó”. Theo sự tường thuật, bản hiệp ước này cũng bao gồm một nghị định thư bí mật chấp thuận các cho lực lượng quân sự Sô Viết được tiếp cận các “phi trường và hải cảng” của Việt Nam. (Ramesh Thaku[r] and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin’s Press, 1992), 61). Mặc dù Việt Nam tuyên bố rằng nó đã ký kết bản hiệp ước này với LBSV để chặn đứng các hành vi của “phe phiêu lưu” Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh chắc chắn đã nhìn điều này như một phần trong các nỗ lực của Mạc Tư Khoa để áp lực Trung Quốc phải lùi bước và tải lập các điều khoản bất bình đẳng của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Nếu LBSV đã có khả năng thiết lập một bàn đạp tại Đông Nam Á, nó có thể thúc vào cạnh sườn của Trung Quốc ở cả hai biên giới phía bắc lẫn phía nam. Nếu thành công, chính sách này có thể mang lại cho Mạc Tư Khoa đủ đòn bẩy để buộc Bắc Kinh phải tái tục, hay ít nhất tái thương thảo, Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 theo các điều kiện của Mạc Tư Khoa. Một chỉ dấu ban đầu của mối quan tâm của Bắc Kinh về Hiệp Ước Sô Viết – Việt Nam được phát biểu bởi tờ Nhân Dân Nhật Báo cảnh cáo rằng Mạc Tư Khoa đang sử dụng Việt Nam chống lại Trung Quốc như nó đã cố gắng trước đây – và đã thất bại – trong việc dùng Cuba để tạo áp lực ngoại giao lên trên Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng cảnh cáo rằng mục đích tối hậu của Mạc Tư Khoa là “đặt toàn thể Đông Dương dưới sự kiểm soát của nó”. Qua việc ký kết bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mười Một 1978, LBSV đã hy vọng sử dụng các quan hệ của nó với Việt Nam để phá hỏng cơ mưu và vượt thắng Trung Quốc. Mối quan tâm chính yếu của Trung Quốc rằng nếu các chính sách của LBSV tại Việt Nam thành công, khi đó chính quyền Sô Viết có thể buộc được một sợi dây thòng lọng quân sự và chiến lược vào cổ Trung Quốc. Suốt từ khi có sự rạn nứt Nga – Hoa, và đặc biệt kể từ khi có các cuộc xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết hồi cuối thập niên 1960, mục đích chủ yếu của Bắc Kinh đã là việc xây dựng tiềm năng quân sự của chính nó nhằm đối phó với Hồng Quân Sô Viết, một mục đích mà phần lớn nó đã đạt được từ khoảng giữa đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 khi quân số của QĐGPNDTQ được tường thuật đã vươn tới 3.6 triệu quân. Về mặt ngoại giao, Bắc Kinh vẫn tiếp tục gắng sức để thúc vào cạnh sườn Mạc Tư Khoa bằng việc chính thức bình thường hóa các quan hệ của nó với Hoa Thịnh Đốn hôm 1 Tháng Một 1979. Tác giả Ramses Amer đã kết luận rằng các liên minh mới của LBSV và Trung Hoa đã được nối kết một cách chặt chẽ: Chính vì thế hai liên minh chiến lược đã được tạo lập trong những tháng cuối cùng của năm 1978, một liên minh Sô Viết – Việt Nam, và một liên minh Trung Quốc – Mỹ, và chúng sẽ chế ngự trong khoảng một thập niên”. Như một kết quả của sự tiến lại gần nhau giữa Trung Quốc và Mỹ hồi đầu năm 1979, mối quan tâm của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với các lực lượng của khối NATO do Mỹ cầm đầu tại phía tây và các lực lượng Trung Quốc tại phía đông được nâng cao. Điều này có thể đã thuyết phục Mạc Tư Khoa gia tăng sự ủng hộ của nó cho cuộc xâm lăng đang tiếp diễn của Việt Nam vào Căm Bốt, một biến cố mà tác giả Robert Ross đã nối kết một cách chặt chẽ với cuộc tấn công sau đó của Trung Quốc vào Việt Nam khi ông lập luận rằng sự tan vỡ của đồng minh thân cận của Trung Quốc tại Căm Bốt khiến cho Bắc Kinh phải lo ngại rất nhiều. Trong khi Bắc Kinh không sẵn lòng can thiệp một cách trực tiếp tại Căm Bốt để chặn đứng sự xâm lấn của V9ệt Nam, cuộc xâm lăng quân sự của Trung Quốc vào vùng lãnh thổ tranh chấp giữa Trung Quốc – Việt Nam trong thực tế đã “đồng bộ” một cách chặt chẽ với cuộc xâm lăng của Việt Nam tại Căm Bốt. Tác giả Ross còn kết luận thêm rằng các cuộc tranh chấp đang tiếp diễn tại Căm Bốt và biên giới Trung Quốc – Việt Nam đã có một “sự liên kết cơ hữu”, khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cảnh cáo Việt Nam đừng suy nghĩ một cách sai lầm rằng Trung Quốc thì “yếu ớt và dễ bị bắt nạt”. Tuy nhiên, trong sự phân tích cuối cùng, Việt Nam là một nước tương đối nhỏ cả về mặt dân số lẫn sức mạnh quân sự, và rất có thể sự đến nơi đột ngột của các số lượng to lớn các cố vấn Sô Viết – ước lượng 5000 đến 8000 người vào giữa năm 1979 – và các số lượng khổng lồ các đồ tiếp tế quân sự đã báo hiệu không tốt cho an ninh chiến lược tức thời của Trung Quốc; chính vì thế, theo tác giả King C. Chen, “Nếu không có liên minh Sô Viết – Việt Nam, cuộc chiến tranh mười sáu ngày giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã không được giao tranh”. Trong một sự nhìn nhận rõ ràng rằng sự hợp tác quân sự của LBSV với Việt Nam đã khiến Trung Quốc lo ngại sâu xa, Đặng Tiểu Bình đã công khai thừa nhận rằng “liên minh quân sự” mới này giữa Sô Viết và Việt Nam thực sự đúng là một phần trong mục đích trong trường kỳ của LBSV mong muốn “bao vây Trung Quốc”. Tiếp theo sau sự ký kết bản Hiệp Ước Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mười Một 1978, Bắc Kinh đã phải tìm kiếm một phương cách để phá vỡ mưu toan bao vây Trung Quốc của Sô Viết. Chính từ đó, nỗi lo sợ bị ép hai bên sườn bởi Mạc Tư Khoa đã là công cụ trong việc thúc đẩy Bắc Kinh phải hành động. Rõ ràng, bước tiến đầu tiên của Trung Quốc là trắc nghiệm quyết tâm của LBSV để xem là liệu nó có làm đúng theo hiệp ước của nó với Việt Nam hay liệu nó sẽ lùi lại và chấp nhận sự thất bại. Đặng Tiểu Bình còn được tường thuật có nói với Tổng Thống Carter trong Tháng Một 1979 rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ “làm sụp đổ các tính toán chiến lược của Sô Viết …” Hậu quả, ngay tác giả Ross đã kết luận rằng theo chân sự chiếm đóng thành công của Việt Nam tại Căm Bốt, chính sự “bao vây phát sinh của Sô Viết nhắm vào Trung Quốc đã nhất thiết tạo ra một cuộc xâm lăng hạn chế vào Việt Nam”. Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979 Các lực lượng Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai năm 1979. Mặc dù các động lực xác thực nằm dưới cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn còn được mở ngỏ cho sự giải thích, mối quan ngại của Bắc Kinh rằng hiệp ước phòng thủ hai mười lăm năm của Mạc Tư Khoa với Hà Nội có thể dẫn dắt đến việc quân sự hóa của Sô Viết vùng biên giới Trung Quốc – Việt Nam chắc chắn đã là một yếu tố quan trọng; Mạc Tư Khoa có thể cũng đã hy vọng rằng bản hiệp ước của nó với Hà Nội sẽ làm chuyển hướng các bộ đội Trung Quốc khỏi miền bắc, do đó làm suy yếu sự phòng thủ quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Tuy nhiên, các hy vọng của Mạc Tư Khoa đã bị tan tành khi Bắc Kinh quyết định tiến đánh Việt Nam. Chỉ sau ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc đã triệt thoái và các tranh chấp trên biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn chưa được giải quyết. Đối với phần lớn các người bên ngoài, hành động quân sự của Trung Quốc chính vì thế rõ ràng là một sự thất bại. Nhưng nếu mục đích thực sự đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm bộc lộ các sự bảo đảm của Sô Viết về sự ủng hộ quân sự cho Việt Nam là một sự dối trá, khi đó sự từ khước của LBSV để can thiệp đã chấm dứt một cách hữu hiệu bản hiếp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam. Chính vì thế, Bắc Kinh đã đạt được một thắng lợi chiến lược rõ ràng bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và bằng việc loại trừ sự đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trân. Vào ngày 15 Tháng Hai, 1979, không chỉ là ngày đánh dấu 29 năm sự thỏa thuận của họ Mao và Stalin về Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên mà Trung Quốc có thể chính thức loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Sô Viết – Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố rằng Trung Quốc đã hoạch định để thực hiện một cuộc tấn công hạn chế đánh Việt Nam. Để ngăn cản sự can thiệp của Sô Viết nhân danh Việt Nam, họ Đặng đã cảnh cáo Mạc Tư Khoa trong ngày kế đó rằng Trung Quốc đã chuẩn bị một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại LBSV; trong sự chuẩn bị cho cuộc xung đột này, Trung Quốc đã đặt toàn thể binh sĩ của nó dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết vào sự báo động chiến tranh khẩn cấp, thiết lập một bộ chỉ huy quân sự mới tại Tân Cương, và còn cho di tản khoảng 300,000 thường dân ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết (Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89). Ngoài ra, khối các lực lượng ứng chiến của Trung Quốc (nhiều đến nửa triệu binh sĩ) được đồn trú dọc biên giới của Trung Quốc với LBSV. (Robert A. Scalapino, “Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union”, trong sách biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA, Auburn House Publishing Company, 1986), 28). Như hứa hẹn, cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc đánh Việt Nam khởi sự hôm 17 Tháng Hai, 1979, trong vòng ba ngày kỷ niệm lần thứ 29 bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Như họ Đặng đã loan báo, ngay từ bước khởi đầu Trung Quốc đã thực hiện một hoạt động hạn chế chống lại Việt Nam. Không chỉ nhiều binh sĩ thiện chiến nhất của Trung Quốc được đồn trú dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết, Bắc Kinh còn quyết định không điều động khoảng 500 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ mà nó đã cho đồn trú trong khu vực. Để đáp ứng lại cuộc tấn công của Trung Quốc, LBSV đã phái vài tàu hải quân và khởi sự một cuộc không vận vũ khí Sô Viết sang Việt Nam. Vào ngày 22 Tháng Hai 1979, Đại Tá N. A. Trarkov, tùy viên quân sự Sô Viết, tại Hà Nội, còn đe dọa rằng LBSV sẽ “thi hành các trách vụ của nó chiếu theo bản hiệp ước Sô Việt – Việt Nam”; tuy nhiên, ở các nơi khác, các nhà ngoại giao Sô Viết có nói rõ rằng LBSV sẽ không can thiệp chừng nào cuộc xung đột vẫn còn được hạn chế. (John Blodgett, “Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?”, trong sách biên tập bởi Rodney W. Jones và Steven A. Hildreth, Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). LBSV rõ ràng không có ý định mạo hiểm vào một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Quốc vì Việt Nam. Sau ba tuần lễ giao tranh dữ dội, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng nó đã chiếm đoạt được ba trong sáu tỉnh lỵ của Việt Nam – Cao Bằng, Lạng Sơn, và Lào Cai – nằm giáp ranh với Trung Quốc. Mặc dù các lực lượng Trung Quốc có tổng số hơn một phần tư triệu quân, phía Việt Nam đã dùng các chiến thuật để cướp đi một thắng lợi mau chóng của phía Trung Quốc. Khi Bắc Kinh loan báo ý định của nó để triệt thoái các bộ đội của nó hôm 5 Tháng Ba, 1979, vì thế, rõ ràng là các mục đích chủ yếu của cuộc tấn công này vẫn chưa đạt được; tức, tiềm năng quân sự của Việt Nam chưa bị tổn hại nghiêm trọng bởi Trung Quốc. Từ đó về sau, biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn căng thẳng khi, sau chưa đầy ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc triệt thoái khỏi Việt Nam. Đối với nhiều quan sát viên bên ngoài, điều rõ ràng rằng cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam đã là một sự thất bại trọn vẹn và tổng quát. Nhưng như tác giả Banning Garrett đã nhận xét một cách chính xác, “phía Trung Quốc đã chứng tỏ rằng họ đã có thể tấn công một đồng minh của Sô Viết mà không có sự trả đũa từ “con gấu bắc cực bằng giấy”. (Banning Garrett, “The Strategic Triangle and the Indochina Crisis”, trong sách biên tập bởi David W. P. Elliott, The Third Indochina Conflict (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212). Trong thực tế, bằng việc chứng minh rằng LBSV sẽ không tích cực can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc vững tin rằng sự chấm dứt của nó bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh. Kết quả, vào ngày 3 Tháng Tư, 1979, Bắc Kinh đã loan báo các ý định của nó nhằm chấm dứt bản Hiệp Ước Thân Hữu, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Từ đó về sau, mặc dù các cuộc thương thuyết giữa Trung Quốc và Sô Viết được mở ra một cách chính thức trong Tháng Mười 1979, cuộc xâm lăng của Sô Viết vào A Phú Hãn đã mang lại cho Trung Quốc một duyên cớ để bãi bỏ các cuộc họp tương lai, theo đó loại trừ bất kỳ nhu cầu tức thời nào để thương thảo một hiệp ước ngoại giao mới giữa Trung Quốc và Sô Viết. Bởi vì các động lực đích thực nằm dưới cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn chưa được rõ, các học giả nghiên cứu cuộc xung đột này đã đề xướng ra nhiều lý thuyết vững chắc khả tín. Có lẽ lý thuyết thông thường nhất rằng Trung Quốc mong muốn “trừng phạt” Việt Nam vì việc xâm lăng Căm Bốt, một khu vực trước đây đã từng được xem là một nước triều cống đối với đế quốc Trung Hoa. Các vấn đề khác giữa Trung Quốc – Việt Nam, chẳng hạn như các sự tranh chấp lãnh thổ tại Quần Đảo Trường Sa và cuộc di cư ồ ạt của dân gốc Hoa từ Việt Nam, cũng đã được phác họa như có đóng giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, điều khả tín nhất là một số tương đối nhỏ các nhà học giả đã lập luận rằng quyết định của Việt Nam để phát huy các quan hệ gần gủi hơn với LBSV đã là lý do chính yếu đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc. Trong số các học giả này, các người đã nêu giả thuytết rằng các hành động của Trung Quốc là một sự đáp ứng đối với bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam ngày 3 Tháng Mười Một 1978, đã có một loạt rộng lớn các sự giải thích về việc liệu chính sách của Trung Quốc đã là một sự thành công hay thất bại. Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc đã thất bại bởi vì nó đã không đặt bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam vào sự “trắc nghiệm tối hậu”. Tác giả Robert Ross cũng đã kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một sự thất bại, mặc dù ông tích cực hơn Segal bằng việc cho rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt là lần đầu tiên kể từ năm 1949 mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực khi lãnh thổ của nó không bị đe dọa một cách trực tiếp, chính vì thế chứng tỏ rằng Trung Quốc giờ đây có khả năng để “hành động như một quyền lực cấp vùng với các quyền lợi cấp vùng”. Sau cùng, tác giả Banning Garrett và Nayan Chanda thì tích cực hơn, ít nhất công nhận các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt dở dang đã là một sự thành công bởi nó chứng tỏ rằng LBSV là một “con gấu bắc cực bằng giấy”vì Mạc Tư Khoa từ khước không thi hành các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó nhân danh Hà Nội. Có lẽ quan điểm tích cực nhất về cuộc xung đột Trung – Việt đến từ tác giả Chang Pao-min. Theo tác giả Chang, khi người ta cứu xét cuộc xung đột này từ một quan điểm của Bắc Kinh, khi đó bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Viết Nam năm 1978 đã là một sự đe dọa rõ ràng đến an ninh của Trung Quốc. LBSV đã không chỉ hy vọng sử dụng hiệp ước này để dựng lên một “Hệ Thống An Ninh Tập Thể Á Châu” nhắm vào Trung Quốc, nhưng các quan hệ quân sự của nó với Việt Nam được mô tả như một mưu toan để “đe dọa và nỗ lực nhằm trói buộc Trung Quốc từ phía nam”; trong khía cạnh này, Việt Nam được mô tả trong các lời tuyên bố sau này của Trung Quốc như là “con dao mà Liên Bang Sô Viết kề sau lưng Trung Quốc”. Do đó, như tác giả Chang nhận xét, cuộc xung đột Trung – Việt phải được nhìn như một phản ứng trước mưu toan của Liên Bang Sô Viết muốn dùng Việt Nam “để ngăn chặn và bao vây Trung Quốc tại Đông Nam Á … [chính vì thế đặt ra] một sự đe dọa nghiêm trọng cho cạnh sườn phía nam của Trung Quốc”. Các lập luận trình bày trong bài viết này có khuynh hướng ủng hộ quan điểm rằng cuộc chiến tranh Tháng Hai 1979 của Trung Quốc với Việt Nam đã là một sự thành công. Một khi Bắc Kinh tin tưởng rằng Mạc Tư Khoa sẽ không can thiệp nhân danh Hà Nội, điều này khiến cho Bắc Kinh mạnh dạn để đoạn tuyệt hoàn toàn với Mạc Tư Khoa; sự đoạn tuyệt này có thể nhận thấy rõ nhất trong lời loan báo hôm 3 Tháng Tư 1979 của Bắc Kinh rằng nó có ý định chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950. Như bằng chứng cuối cùng rằng các chính sách của Trung Quốc tại Việt Nam được nối kết một cách rối rắm với LBSV, tác giả Amers đã ghi nhận nhận một cách xác thực rằng quyết định năm 1988 của Trung Quốc về việc gỡ bỏ các quan hệ biên giới của nó với Việt Nam ra khỏi vấn đề Căm Bốt tuơng ứng gần như chính xác với các nỗ lực của Gorbachev nhằm bình thường hóa các quan hệ với Trung Quốc và cải thiện các quan hệ của LBSV với các quốc gia thuộc khối ASEAN. Chính vì thế, bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và loại trừ được mối đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược quan trọng đối với LBSV. LBSV Có Phải Là “Con Gấu Bắc Cực Bằng Giấy”? Các học giả Tây Phương gần như nhất trí kết luận rằng cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự thất bại. Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, “cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979 đã là một sự thất bại trong chính sách ngoại giao quan trọng nhất kể từ 1949”. Tác giả Robert Roos đã đồng ý phần lớn, phát biểu: “Sự thất bại trong chính sách của Trung Quốc nhấn mạnh vai trò mơ hồ của quyền lực cấp vùng trong chính trị quốc tế đương đại”. Gần đây nhất, tác giả Ellis Joffe, một chuyên viên về QĐGPNDTQ tại Đại Học Hebrew University tại Jerusalem, đã kết luận: “Trung Quốc bị tổn thương bởi các biện pháp hạn chế chống lại Việt Nam hồi năm 1979. Trung Quốc tìm cách giảng dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học”. (“Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China”, Far Eastern Economic Review, 8 Tháng Hai 1996, 20-21.) Các sự lượng định tiêu cực này của Tây Phương thì tương phản một cách sắc nét với các lời tuyên bố của chính Bắc Kinh rằng cuộc chiến tranh năm 1979 của nó chống lại Việt Nam là một sự thành công, bởi vì quyết định của Mạc Tư Khoa không can thiệp chứng tỏ rằng LBSV chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy”. Bắc Kinh rõ ràng sẵn lòng hậu thuẫn lời tuyên bố này bằng hành động, khi nó không chỉ loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950 mà rồi sau này còn chuyển đến Mạc Tư Khoa ba điều kiện tiên quyết cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Ba điều kiện tiên quyết này gồm: 1) triệt thoái bộ đội Sô Viết ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, 2) triệt thoái binh sĩ Sô Viết ra khỏi A Phú Hãn, và 3) đình chỉ sự ủng hộ của Sô Viết cho sự xâm nhập của Việt Nam vào Căm Bốt. (Yao Wengin, “Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China’s Security”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.) Vì thế, ngoài việc chấp nhận một vị thế khẳng định hơn trong các quan hệ của nó với LBSV, các lân bang phía nam của Trung Quốc cũng buộc phải đối xử với Trung Quốc với nhiều sự nể trọng hơn; theo một báo cáo năm 1986, bởi Hà Nội bị thua ván cờ năm 1979 rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ thực sự tấn công, Việt Nam, “bị trừng phạt bởi kinh nghiệm năm 1979, giờ đây đồn trú 700,000 quân chiến đấu tại phần phía bắc của xứ sở”. (Karl D. Jackson, “Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.) Vai trò khẳng định hơn của Trung Quốc tại Á Châu trong suốt thập niên 1980 vì thế khiên ta nghĩ rằng Bắc Kinh đã thực sự tin tưởng rằng nó đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979. Chính từ đó, mặc dù tác giả Nayan Chanda và các tác giả khác cảnh cáo rằng các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV đã chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” có thể hoàn toàn là sự tuyên truyền, các hành động của chính Bắc Kinh cho thấy rằng họ tin tưởng một cách vững chắc quan điểm này. Chính vì lý do này mà các cuộc thảo luận gần đây về thời điểm khi mà Cuộc Chiến Tranh Lạnh thực sự được chấm dứt sẽ rõ ràng có một sự liên quan trực tiếp đến sự xác quyết năm 1979 của Bắc Kinh rằng Mạc Tư Khoa đã sẵn quá yếu kém để giao chiến. Trong thực tế, theo cái nhìn của Trung Quốc, sự thất bại của LBSV không can thiệp nhân danh Việt Nam trong năm 1979 đã là bằng chứng tích cực rằng Mạc Tư Khoa đã không còn lòng dạ để chiến đấu một cuộc chiến tranh quan trọng; nói cách khác, kỷ nguyên nguy hiểm nhất của Chiến Tranh Lạnh đã sẵn qua đi. Cho đến nay, cuộc thảo luận phổ quát rằng liệu Cuộc Chiến Tranh Lạnh đã thực sự bị vượt qua sớm hơn sự sụp đổ của Bức Tưiờng Bá Linh năm 1989 vốn xoay quanh các lời tuyên bố được đưa ra bởi viên Tướng 4 Sô Viết bốn sao Anatoly Gribkov, cựu tham mưu trưởng Thỏa Ước Warsaw hồi đầu thập niên 1980. Gribkov đặt các lập luận của ông trên sự kiện rằng vào Tháng Mườì Hai năm 1981, Bộ Chính Trị Sô Viết rõ ràng đã đánh mất ý chí chính trị để sử dụng vũ lực nhằm giữ vững sự kiểm soát đế quốc mở rộng của họ. Sự lượng định này được dựa tre6n sự từ khước của Bộ Chính Trị không gửi binh sĩ đến Ba Lan để phá tan một sự nắm quyền bính của phe dân chủ, một dấu hiệu của sự suy yếu mà Gribkov vạch ra như bằng chứng rằng LBSV đã thực sự “thua” Cuộc Chiến Tranh Lạnh ngay từ 1981. (The Two Trillion Dollar Mistake”, Worth, (February 1996), 78-83/128-129.) Biên bản một phiên họp của Bộ Chính Trị Sô Viết từ ngày 10 Tháng Mười Hai 1981 được giải mật gần đây có khuynh hướng hậu thuẫn cho sự tuyên xác của Gribkov, qua việc phô bày rằng giải pháp gửi binh sĩ chống lại đảng “Liên Đới: Solidarity” của Ba Lan được bác bỏ một cách nhất trí bởi Mạc Tư Khoa vì có sự bất trắc quá to lớn. (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (spring 1995), 135-137). Ngoài ra, các biên bản này cũng tiết lộ rằng Bộ Chính Trị đã cứu xét một cách nghiêm trọng sự thoái bộ tại vùng Viễn Đông qua việc ra lệnh rút quân Sô Viết ra khỏi Mông Cổ; nếu Mạc Tư Khoa thực sự thi hành kế hoạch này, khi đó nó đã nhượng bộ một trong ba điều kiện tiên quyết của Bắc Kinh cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Các tài liệu Sô Viết này, và các tài liệu khác tương tự như chúng, rõ ràng hậu thuẫn cho lời xác quyết của Gribkov rằng vào năm 1981 giới lãnh đạo Sô Viết đã sẵn mất khả năng sử dụng vũ lực hầu chống đỡ đế quốc Sô Viết đang tan tành. Chính cùng lý luận này cũng có thể áp dụng cho cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979, bởi cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam rõ ràng đặt ra một sư đe dọa thực sự cho an ninh và sự ổn định của khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Đông Nam Á. Chính sự kiện rằng Bộ Chính Trị Sô Viết từ khước không chu toàn các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó với Việt Nam và đã từ chối can thiệp chống lại Trung Quốc khiến ta nghĩ rằng lập luận của Gribkov cho rằng Bộ Chính Trị Sô Viết đã mất ý chị chính trị để duy trì đế quốc của nó lại với nhau bằng vũ lực cũng có thể áp dụng một cách đồng cân sức – nếu không phải nhiều hơn – cho kết cuộc của cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979. Sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh năm 1989 và sự tan rã không ngờ của LBSV năm 1991 đòi hỏi một sự lượng định mới về tác động của các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết trên cuộc xung đột Trung – Việt Tháng Hai 1979. Một khía cạnh của sự lượng định này phải được cứu xét liệu lời tuyên xác năm 1979 của Trung Quốc rằng LBSV đã sẵn là một “con gấu bắc cực bằng giấy” giờ đây có vẻ khả tín hơn chiếu theo sự giải tán sau này của LBSV. Mặc dù lời tuyên xác của Gribkov rằng Chiến Tranh Lạnh đã sằn bị vượt qua năm 1981 có thể sớm hơn nhiều thời hạn mà phần lớn các học giả Tây Phương sẵn lòng chấp nhận, nó đi sau vài năm theo cái nhìn của Trung Quốc. Vì thế, trong sự hậu xét, hạn kỳ 1979 của Trung Quốc không chỉ có vẻ khả tín, mà đối với các học giả tương lai, một ngày nào dó, thời điểm 1979 có thể chứng tỏ rằng còn chính xác hơn năm 1981. Nếu như thế, khi đó Bắc Kinh phải được dành cho công lao thích đáng cho việc xác định một cách chính xác các triệu chứng Viễn Đông trong các nhược điểm nội tại của Mạc Tư Khoa sớm hơn hai năm trước khi các dấu hiệu tương tự trở nên nhận thức được bởi khối Tây. Điều này khi đó nêu lên câu hỏi liệu “bước khởi đầu của sự kết thúc” Chiến Tranh Lạnh đã thực sự xảy ra trong năm 1979, do kết quả của sự từ khước của Mạc Tư Khoa chấp nhận sự thách đố trơ tráo của Bắc Kinh đối với ưu thế quân sự của LBSV tại Viễn Đông hay không. Kết Luận Các cuộc nghiên cứu trước đây về cuộc xung đột Trung – Việt ngày 17 Tháng Hai 1979 nói chung phác họa các hành động của Trung Quốc như một sự thất bại tuyệt đối. Bài viết này, ngược lại, đã nỗ lực để tái lượng giá cuộc chiến tranh Trung – Việt dưới khía canh các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết bằng việc liên kết cuộc xung đột này với lần kỷ niệm 29 năm ngày ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết hôm 14 Tháng Hai năm 1950. Như một kết quả trực tiếp của quyết định của Sô Viết không can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc trở nên tin tưởng rằng LBSV thiếu mất ý chí chính trị để vận dụng đến chiến tranh hầu chống đỡ khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Á Châu. Sự tin tưởng này đã dẫn dắt Bắc Kinh đến việc thông báo Mạc Tư Khoa hôm 3 Tháng Tư 1979 rằng Trung Quốc có ý định chấm dứt bản Hirệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 khi đạt tới hết thời hiệu 30 năm của nó vào năm 1980. Từ 1950 cho đến 1979, Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là nền tảng trên đó các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết được đặt định. Mặc dù các phần được công bố của bản hiệp ước này được cung cấp từ lâu, nội dung đích thực của các nghị định thư bí mật đính kèm bản hiệp ước này phần lớn vẫn chưa được hay biết. Tuy nhiên, với các nghị định thư bí mật này liên hệ đến các sự tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Sô Viết khá rõ ràng, và trong các thập niên 1950 và 1960 các sự tranh chấp biên giới thường xuyên giữa LBSV và Trung Quốc đã phản ảnh mức độ căng thẳng mà các nghị định thư bí mật đã sản sinh ra. Mặc dù không có một trong các cuộc xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết nào được phép để leo thang thành chiến tranh toàn diện, Bắc Kinh tiếp tục trắc nghiệm quyết tâm của LBSV để xem liệu nó có vận dụng đến vũ lực hầu chống đỡ cho các điều khoản của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 hay không. Chính từ đó, trong quan điểm của Bắc Kinh, bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là công cụ trọng yếu qua đó Mạc Tư Khoa đã cố gắng để hành sử “bá quyền” của nó trên Trung Quốc và khắp phần còn lại của Á Châu. Ngược lại, Mạc Tư Khoa rõ ràng quan tâm đến những gì có thể xảy ra khi Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết đạt tới thời hiệu 30 năm của nó. Khởi sự trong năm 1969, LBSV thường xuyên thúc dục Trung Quốc thay thế bản hiệp ước này bằng một thỏa ước nới. Để buộc Bắc Kinh lùi bước, Mạc Tư Khoa đã không chỉ gia cố các biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, nó còn thực hiện áp lực Trung Quốc từ phía nam, bằng việc hoàn tất một hiệp ước liên minh với Việt Nam. Chính từ đó, sự cải thiện các quan hệ Sô Viết – Việt Nam, lên đến cực điểm với sự ký kết hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mườu Một 1978, có thể được nối kết một cách trực tiếp với các quan hệ đang tồi tệ của Trung Quốc với LBSV vào cuối thập niên 1970. Tuy nhiên, thay vì lùi bước, Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai, 1979, chỉ ba ngày sau lễ kỷ niệm thứ 29 ngày ký kết bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Khi Mạc Tư Khoa từ khước can thiệp nhân danh Hà Nội, Bắc Kinh đã quyết định rằng Bộ Chính Trị Sô Viết sẽ không vận dụng đến chiến tranh để buộc Trung Quốc phải duy trì bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 và như thế đà mạnh dạn loan báo hôm 3 Tháng Tư 1980 rằng nó có ý định chấm dứt bản hiệp ước này. Một trong các mục đích chính yếu của Bắc Kinh trong việc tấn công Việt Nam là nhằm bảo đảm rằng Trung Quốc không bị bao vây cả phía bắc lẫn phía nam bởi các lực lượng Sô Viết. Cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam, bất kể các sự khuyết điểm hiển nhiên của nó, đã đạt được mục tiêu chiến lược này bởi sự từ khước của LBSV để can thiệp nhân danh Việt Nam đã triệt hạ mối đe dọa một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với LBSV và Việt Nam. Trên bình diện ngoại giao, Trung Quốc cũng giành đạt được một chiến thắng rõ ràng chống lại các mưu toan của Sô Viết nhằm áp lực Trung Quốc tiến tới việc ký kết một hiệp ước mới để thay thế hay bổ túc bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết ngày 14 Tháng Hai, 1950. Sau cùng, khi nhìn lại sau này, sự tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV thực sự chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” rõ ràng khá chính xác, và chính vì thế tương trưng có lẽ cho dấu hiệu bên ngoài đầu tiên rằng đế quốc Sô Viết đã bị đe dọa bởi sự tan rã bên trong, một sự tan rã chỉ trở nên hiển hiện mười năm sau này với sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh và với sự giải tán của LBSV năm 1991./- Nguồn: Bài tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas">
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacBruceElleman1979.htm

Ngô Bắc
Gió-O
Lời Người Dịch: Dưới đây là bản dịch bài tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas. Vì là văn nói, nên các chú thích về nguồn tài liệu tham khảo được ghi ngay sau dữ kiện nơi thân bài, thay vì được sắp xếp như các cước chú ở cuối bài văn viết.
***
Tác giả Gerald Segal, trong quyển sách của ông nhan đề Defending China, đã kết luận rằng cuộc chiến tranh năm 1979 của Trung Quốc đánh Việt Nam là một sự thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã thất bại không buộc được một sự triệt thoái của Việt Nam ra khỏi [Căm Bốt], đã thất bại không chấm dứt được các vụ đụng độ ở biên giới, đã thất bại không tạo được sự nghi ngờ trên sức mạnh của quyền lực Sô Viết, đã thất bại không xóa tan được hình ảnh về Trung Quốc như một con hổ bằng giấy, và đã thất bại không lôi kéo được Hoa Kỳ vào một liên hiệp chống Sô Viết”.
Trong một nỗ lực để thách đố lại quan điểm này cho rằng chính sách của Bắc Kinh đã là một sự thất bại, bài viết này sẽ gắng sức để tái lượng giá vai trò trung tâm mà các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết đã đóng giữ trong quyết định của Trung Quốc để tấn công Việt Nam. Quan trọng nhất, bài viết sẽ cố gắng trình bày rằng việc ấn định thời biểu cho cuộc tấn công hôm 17 Tháng Hai của Trung Quốc vào Việt Nam được nối kết với sự kỷ niệm hàng năm lần thứ 29 bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc và Sô Viết năm 1950.

Mặt trận Lạng Sơn tháng 2, 1979
Người ta phải nhớ lại rằng vào ngày 14 Tháng Hai, 1950 Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đã ký kết một hiệp ước có hiệu lực 30 năm bao gồm cả các nghị định thư bí mật ủng hộ vai trò của Liên Bang Sô Viết (LBSV) như nước lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới. Khi sau này Mạc Tư Khoa cự tuyệt không tái thương thảo về các sự tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Sô Viết, sự kiện này đã dẫn dắt đến các vụ đụng độ ở biên giới Trung Quốc – Sô Viết, quan trọng nhất là vào cuối thập niên 1960.
Các học giả Tây Phương tất cả đều thường quên rằng ngay trong suốt thời kỳ căng thẳng này giữa Trung Quốc và Sô Viết, bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc-Sô Viết 1950 vẫn còn đầy đủ hiệu lực trong suốt toàn thể thời kỳ của sự xáo trộn. Ít nhất từ quan điểm của Bắc Kinh, hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết 1950 đã là một công cụ quan trọng xuyên qua đó Mạc Tư Khoa đã cố gắng hành xử “bá quyến” của nó trên Trung Quốc.
Mạc Tư Khoa rõ ràng quan tâm đến những gì có thể xẩy ra khi hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết đáo hạn 30 năm của nó. Bắt đầu từ năm 1969, LBSV thường xuyên thúc dục Trung Quốc thay thế hiệp ước 1950 bằng một hiệp định mới. Trong năm 1978, các lực lượng Sô Viết được gia tăng dọc các biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Trung Quốc – Mông Cổ. Mạc Tư Khoa cũng đã tìm cách buộc Bắc Kinh phải đi đến sự thỏa thuận bằng việc tăng cường các quan hệ ngoại giao với Hà Nội, ký kết một hiệp ước phòng thủ hai mươi lăm năm với Việt Nam vào ngày 3 Tháng Mười Một, 1978.
Tuy nhiên, thay vì lùi bước, Trung Quốc đã loan báo ý định của nó nhằm xâm lăng Việt Nam vào ngày 15 Tháng Hai, 1979, ngay chính ngày đầu tiên mà nó có thể chấm dứt một cách hợp pháp Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết 1950 và Trung Quốc đã tấn công ba ngày sau đó. Khi Mạc Tư Khoa không can thiệp, Bắc Kinh đã tuyên bố công khai rằng LBSV đã không giữ đúng nhiều lời hứa hẹn của LBSV nhằm trợ giúp Việt Nam. Sự thiếu sót của LBSV để ủng hộ Việt Nam khiến cho Trung Quốc bạo dạn hơn để loan báo hôm 3 Tháng Tư, 1979 rằng nó đã có ý định chấm dứt bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc và Sô Viết năm 1950.
Thay vì làm việc dưới sự giả định rằng cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự thất bại hoàn toàn, bài viết này sẽ cố gắng giải trình rằng một trong các mục đích ngoại giao chính yếu đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày các sự cam kết của Sô Viết về sự ủng hộ quân sự cho Việt Nam là một sự lừa bịp. Nhìn dưới ánh sáng này, chính sách của Bắc Kinh thực sự đã là một sự thành công về ngoại giao, bởi vì Liên Bang Sô Viết đã không tích cực can thiệp, chính vì thế phô bày các giới hạn thực tế của thỏa ước quân sự giữa Sô Viết – Việt Nam. Kết quả, bài viết này sẽ nêu ý kiến rằng Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược bằng việc tối thiểu hóa khả tính tương lai về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận chống lại LBSV và Việt Nam và một chiến thắng ngoại giao bằng việc chấm dứt Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950.
Bài viết này cũng sẽ tái lượng giá lời tuyên bố của Bắc Kinh rằng sự thiếu sót không can thiếp của LBSV chống Trung Quốc đã chứng tỏ rằng LBSV chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy”. Các tài liệu văn khố được giải mật gần đây tại LBSV có chiều hướng ủng hộ cho lời tuyên bố của Trung Quốc, nêu lên câu hỏi quan trọng là liệu vào năm 1979 Bắc Kinh đã sẵn xác định một cách chính xác các triệu chứng ở Viễn Đông cho sự suy đồi nội bộ của Mạc Tư Khoa – cùng sự suy đồi sau hết dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sô Viết năm 1991 – vài năm trước khi bằng chứng tương tự của sự suy đồi này trở nên khả cung tại chiến trường Âu Châu. Nếu đúng thế, khi đó có khả tính hiện hữu rằng “bước khởi đầu của sự kết thúc” Cuộc Chiến Tranh Lạnh thực sự đã xảy ra tại Á Châu.
Lược Sử Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô ViếtCho Đến Cuối Thập Niên 1960
Các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết cho đến cuối thập niên 1960 bị hư hỏng không chỉ bởi sự bất đồng sâu sắc về quy chế của vùng Ngoại Mông, mà còn bởi nhiều cuộc tranh chấp lãnh thổ dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Trong thực tế, các sự xung đột này làm ung thối bên dưới bề mặt của các quan hệ Nga – Hoa trong hơn một thế kỷ, suốt từ khi Đế Quốc Nga đã ép buộc Trung Quốc phải ký kết một loạt các hiệp ước nhượng lại cho Nga các vùng đất bao la. Theo quyển sách sắp xuất bản nhan đề Imperial Rivals (Các Đối Thủ Đế Quốc) của S. C. M. Paine, “Đối với Trung Hoa, các sự mất mát lãnh thổ thực sự thì khổng lồ: một khu vực vượt quá diện tích bên phía đông sông Mississippi của Hoa Kỳ đã chính thức trở thành lãnh thổ của Nga hay, trong trường hợp của Ngoại Mông, là vùng đất bảo hộ của Sô Viết”.
Tiếp theo sau cuuộc Cách Mạng năm 1949 của Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã du hành sang Mạc Tư Khoa để điều đình một hiệp ước chính thức với Stalin. Sau hai tháng, Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết được hoàn tất và ký kết hôm 14 Tháng Hai, 1950. Thời hạn của bản hiệp ước này là ba mươi năm và điều khoản số sáu quy định một cách đặc biệt rằng nếu không bên kết ước nào loan báo ý định của mình muốn chấm dứt bản hiệp ước trong năm sau cùng của nó, khi đó liên minh sẽ tự động được triển hạn cho năm năm nữa.
Trong thực tế, các phiên bản được ấn hành của bản hiệp ước Trung Quốc – Sô Viết này đã không bao hàm nhiều nghị định thư bí mật. Tạp Chí Dự Án Lịch Sử Quốc Tế Về Chiến Tranh Lạnh, số Mùa Đông 1995 bao gồm một bài viết gồm sự trình bày của họ Mao về các cuộc thương thảo Trung Quốc – Sô Viết bí mật:
Trong các cuộc thương thảo, theo đề xướng của Stalin đã có một nỗ lực được tiến hành bởi Liên Bang Sô Viết để đảm nhận quyền sở hữu độc nhất Đường Hỏa Xa Changchun (tức Harbin, ?Trường Xuân) của Trung Quốc. Tuy nhiên, sau đó một quyết định đã được đưa ra về việc khai thác chung …Đường Hỏa Xa, ngoài những gì mà CHNDTQ đã trao cho LBSV căn cứ hải quân tại Hải Cảng Port Arthur, và bốn công ty cổ phần hỗn hợp được thiết lập tại Trung Quốc. Theo đề xuất của Stalin, … Mãn Châu và Tân Cương trong thực tế được biến thành các khu vực chịu ảnh hưởng của Sô Viết.
Chính vì thế, mặc dù các phần công bố của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã được hay biết từ lâu, một số lượng không được xác định các nghị định thư bí mật cũng đã được ký kết, cho đên nay, các bản sao của các nghị định thư này chưa hề được ấn hành. (Bruce Elleman, “The End of Extraterritoririality in China: The Case of the Soviet Union, 1919-1960”, Republican China (sắp được ấn hành, Mùa Xuân 1996).
Vào ngày 15 Tháng Hai, 1950, họ Mao cũng miễn cưỡng đồng ý “quy chế độc lập” của MPR (Mongolian People’s Republic: Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ: CHNDMC). Tuy nhiên, sự nhìn nhận này còn lâu mới là việc thừa nhận sự độc lập hoàn toàn của Mông Cổ ra khỏi Trung Quốc, bởi họ Mao tin tưởng một cách vững chắc rằng chính phủ Sô Viết trước đây đã hứa hẹn trao trả Mông Cổ lại cho Trung Quốc. Dựa trên các sự phàn nàn sau này của họ Mao, họ Mao hẳn đã phải nhận được các sự bảo đảm của Stalin về quy chế của Mông Cổ, cũng như về vị trí chính xác của các biên giới Trung Quốc – Mông Cổ và Trung Quốc – Sô Viết, sẽ được thảo luận trong các phiên họp tương lai. Chính vì thế, sự cự tuyệt của Mạc Tư Khoa để mở các cuộc thương thảo với Bắc Kinh sau rốt đã dẫn đến các sự đụng độ biên giới trong các thập niên 1950 và 1960. Mặc dù biên giới Trung Quốc – Mông Cổ đã được giải quyết trong năm 1962, họ Mao đã công khai tố cáo các sự xâm lấn của Sô Viết vào lãnh thổ của Trung Quốc và ông ta đã phản đối sự kiểm soát của Sô Viết tại Mông Cổ: “Liên Bang Sô Viết, lấy cớ bảo đảm cho nền độc lập của Mông Cổ, thực sự đã đặt xứ sở này dưới sự thống trị của nó”.
Vào cuối thập niên 1960, trong một loạt các biến cố biên giới dọc các con sông Ussuri và Amur, QĐGPNDTQ đã biểu lộ một sự kiên cường đáng ngạc nhiên chống lại Hồng Quân [Sô Viết]. Các vụ xung đột này này có phạm vi nhỏ và kết cuộc cho thấy là không ngã ngũ, nhưng chúng đã dẫn dắt đến các vụ xung đột lãnh thổ sau này tại Tân Cương dọc theo biên giới của Trung Quốc với LBSV.
Mặc dù sự căng thẳng trong các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết thì lớn lao đên nỗi nhiều học giả Tây Phương đã đề cập đrến nó như một “sự rạn nứt”, bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 vẫn tiếp tục hiện hữu. Trong thực tế, bản hiệp ước này, bao gồm cả các điều khoản đã được phổ biến một cách công khai và các nghị định thư bí mật, vẫn còn là nền tảng trên đó các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết dựa vào. Tuy nhiên, nền tảng này đã bất ổn định ngay từ lúc khởi đầu, bởi LBSV đã từ chối không chịu giao hoàn các phần đất giành đoạt phi nghĩa của Nga thời Sa Hoàng cho giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc. Điều có thể tranh luận rằng chính điều này, hơn bất kỳ lý do nào khác, đã dẫn dắt các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến việc kết án “chủ nghĩa bá quyền” của Sô Viết tại vùng Viễn Đông. Cũng chính vấn đề này đã nhất thiết làm chua chát các quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam trong thập niên 1970.
Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô Viết Trong Thập Niên 1970
Các cuộc tranh chấp biên giới Trung Quốc – Sô Viết hồi cuối thập niên 1960 đặc biệt đáng lo âu cho Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, bởi cả LBSV lẫn Trung Quốc giờ đây đều là các nước có vũ khí hạt nhân; rõ ràng một sự đồng thuận không chính thức đã được đạt tới là không bên nào sẽ vận dụng đến không lực. (Christian F. Ostermann, “New Evidence on the Sino-Soviet Border Dispute”, Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 186-193).
Tuy nhiên, các vụ xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết này đã có các tác động xã hội khổng lồ, buộc cả hai nước phải chuyển hướng các tài nguyên khan hiếm vào việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân khả hữu hay cho sự leo thang quân sự tương lai dọc theo các biên giới chung của hai nước. Niềm tin tưởng mới tìm thấy của QĐGPNDTQ rằng nó có thể đối đầu với Hồng Quân cũng đã mang lại cho Bắc Kinh cơ hội trong năm 1971 để chấp nhận một đề nghị chính sách ngoại giao mới bằng việc phát huy các quan hệ thân hữu với Hoa Kỳ.
Ngoài ra, Trung Quốc đã rán sức để cải thiện các quan hệ của nó với Nhật Bản, đã ký kết một hiệp ước trong Tháng Tám 1978 rõ ràng có tính chất chỉ trích chính sách ngoại giao của Liên Bang Sô Viết tại Á Châu bằng cách kết án một cách cá biệt “chủ nghĩa bá quyền”. Sau cùng, các căng thẳng Trung Quốc – Sô Viết cũng đã làm sinh sôi một số các cuộc chiến tranh ủy nhiệm tại Đông Nam Á, chẳng hạn như cuộc xung đột cuối thập niên 1970 giữa Căm Bốt và Việt Nam, cũng như buộc Trung Quốc [sỉc, nhiều phần là LBSV mới đúng nghĩa của câu văn, chú của người dịch] phải chấp nhân vai trò của Trung Quốc như một quyền lực trong vùng, được thể hiện rõ nhất bằng cuộc xâm lăng của nó trong năm 1979 vào Việt Nam để triệt hạ ảnh hưởng gia tăng của LBSV.
Trong suốt thập niên 1970, các căng thẳng Trung Quốc – Sô Viết vẫn còn ở cao độ. Trong thời kỳ này, Mạc Tư Khoa đã cố gắng để thuyết phục Bắc Kinh thương thảo một hiếp định mới sẽ hoặc ủng hộ, hay ngay cả thay thế, cho Hiệp Ước Năm 1950 giữa Trung Quốc – Sô Viết. Khởi đầu trong năm 1969 và 1970, Mạc Tư Khoa đã đề nghị rằng hai phía hứa hẹn không tấn công nhau, và đặc biệt không bao giờ vận dụng tới các vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh không bày tỏ bất kỳ sự quan tâm nào đến sự thỏa thuận này, Mạc Tư Khoa đã đề nghị trong năm 1971 rằng hai nước sẽ ký kết một hiệp ước mới sẽ cùng từ bỏ [sử dụng] vũ lực. Sau đó, trong năm 1973, Mạc Tư Khoa đã bày tỏ sự quan tâm của nó bằng việc đề nghị một cách cá biệt rằng hai nước ký kết một thỏa ước bất tương xâm; Bắc Kinh tiếp tục tảng lờ các đề xuất của Mạc Tư Khoa.
Khi sự chấm dứt thời hạn 30 năm Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết đến gần, các nỗ lực của LBSV để thay thế bản hiệp ước này đã gia tăng một cách quyết liệt. Thí dụ, vào ngày 24 Tháng Hai, 1978, Mạc Tư Khoa đã đề nghị một cách công khai rằng hai chính phủ công bố một tuyên bố về các nguyên tắc sẽ điều hành các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Lời tuyên bố về các nguyên tắc này sẽ bao gồm: 1} sự bình đẳng, 2) sự tôn trọng hỗ tương chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, 3) việc bất can thiệp vào các công việc nội bộ của nhau, và 4) việc không sử dụng vũ lực. Mạc Tư Khoa rõ ràng đã hy vọng rằng một bản tuyên bố như thế có thể được dùng để thay thế cho bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 để điều hòa các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Mục đích tối hậu tcủa các đề nghị của LBSV, tuy thế, rõ ràng để giới hạn, hay có lẽ còn làm giảm bớt, ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc khắp Á Châu. (Theo tác giả Chang Pao-min, khía cạnh này trong các chính sách của Sô Viết đối với Trung Quốc thì có tính chất hấp dẫn nhất đối với phía Việt Nam, còn trích dẫn một viên chức Việt Nam có tuyên bố như sau: “Có một quyền lợi Sô Viết mạnh mẽ cụ thể nhất trùng hợp với các quyền lợi của Việt Nam – giảm bớt ảnh hưởng của Trung Quốc tại phần đất này của thế giới”. Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47).
Tuy nhiên, Bắc Kinh đã cự tuyệt tất cả các đề nghị của Mạc Tư Khoa, và trong suốt thập niên 1970, sự kết án của Trung Quốc đối với LBSV đã trở nên lớn giọng hơn. Thí dụ, trong Tháng Hai 1974, Mao Trạch Đông đã công khai kêu gọi một liên hiệp “thế giới thứ ba” chống lại điều được gọi là “thế giới thứ nhất”, trong trường hợp này gồm cả LBSV lẫn Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi có sự từ trần của họ Mao, một bản tin ngày 1 Tháng Mười Một 1977 của tờ Nhân Dân Nhật Báo, đã xác định LBSV là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc trong khi Hoa Kỳ giờ đây được xem là một đồng minh. Tất cả các nước cộng sản – kể cả đặc biệt Việt Nam (“Sự suy đồi trong các quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc sau năm 1975 và sự xếp hàng thân Sô Viết hiện thời của Việt Nam có thể dõi tìm nơi sự kháng cự của Việt Nam trước áp lực của Trung Quốc buộc Việt Nam phải lựa chọn phe cánh”, Ramesh Thaku[r] và Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin’s Press, 1992), 287) – cũng đều được xem là các đồng minh tiềm năng trong một “mặt trận thống nhất” đề nghị chống lại LBSV. Sau cùng, vào ngày 26 Tháng Ba, 1978, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã đòi hỏi rằng Mạc Tư Khoa, ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của “các khu vực tranh chấp” dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết, phải triệt thoái hoàn toàn các bộ đội Sô Viết ra khỏi Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, cũng như rút quân lùi xa khỏi toàn thể biên giới Trung Quốc – Sô Viết.
Trong sự đáp ứng với các đòi hỏi của Trung Quốc, Leonid Brezhnev, Tổng Bí Thư Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết (ĐCSLBSV), đến thăm viếng vùng Siberia (Tây Bá Lợi Á) hồi đầu Tháng Tư 1978, và có loan báo rằng trang thiết bị mới, tân tiến hơn đã được cung cấp cho các đơn vị hỏa tiễn dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết. Các vũ khí mới này, Brezhnev loan báo, sẽ là công cụ trong việc “bảo toàn cho chính chúng ta và các nước thân hữu xã hội chủ nghĩa của chúng ta chống lại sự xâm lược khả hữu, bất kể nguồn gốc từ đâu”. Không lâu sau đó, vào ngày 12 Tháng Tư, 1978, Ulan Bator [thủ đô của Mông Cổ, chú của người dịch] cũng công khai phản đối các đòi hỏi của Bắc Kinh, tuyên bố rằng các binh sĩ Sô Viết bổ túc đã được đồn trú dọc biên giới Trung Quốc – Mông Cổ theo lời yêu cầu của Mông Cổ nhằm dáp lại các sự tập trung bộ đội Trung Quốc gia tăng tại phía nam biên giới.
Như các biến cố này đã phô bày hoàn toàn rõ ràng, vào năm 1978 các căng thẳng biên giới Trung Quốc – Sô Viết đã gia tăng cường độ một cách mạnh mẽ, chính yếu bởi các sự tập trung binh sĩ Sô Viết nhiều hơn dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết và tại Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ. Ở một mức độ rộng lớn hơn, tình trạng này có thể được giải thích bởi các nỗ lực liên tục của Mạc Tư Khoa nhằm áp lực Bắc Kinh không được chấm dứt bản Hiếp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950, vốn có thể bị kết thúc ngay trong lần đầu tiên vào năm 1979, hay – tốt hơn nữa – thương thảo một hiệp ước mới nhằm phác họa các nguyên tắc trên đó các quan hệ tương lai của Trung Quốc – Sô Viết sẽ được đặt đinh. Lời loan báo của Brezhnev rằng ông ta có ý định sử dụng các lực lượng Sô Viết chống lại Trung Quốc nhân danh “các nước thân hữu xã hội chủ nghĩa” của Mạc Tư Khoa cũng là một sự cảnh cáo cho Bắc Kinh không được nhúng tay vào CHNDMC cũng như các đồng minh của Mạc Tư Khoa tại Đông Nam Á.
Trung Quốc đã không chỉ không nhượng bộ dưới áp lực quân sự và ngoại giao của LBSV, mà Bắc Kinh kế tiếp đã cố gắng sử dụng áp lực ngoại giao lên trên Mạc Tư Khoa bằng cách gắng sức để củng cố các quan hệ của nó với cả Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điều có thể gây tranh luận rằng chính sách của Bắc Kinh đã thành công hơn trong hai đường lối, đưa đến việc Bắc Kinh đã ký kết hai hiệp định đánh dấu lịch sử với cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Đông Kinh. Đối với Mạc Tư Khoa, điều hẳn phải xem rõ ràng rằng các hiệp định mới của Trung Quốc là nhằm chống lại LBSV, bởi – ít nhất trong trường hợp bản hiệp ước Trung – Nhật – hai bên đã kết án một cách cá biệt “chủ nghĩa bá quyền”, một khẩu hiệu hay được Trung Quốc sử dụng để chỉ chính sách bành trướng của Sô Viết. Sự đáp ứng của LBSV là tăng cường các quan hệ ngoại giao của nó với tất cả các nước Đông Nam Á giáp ranh với Trung Quốc, và quan trọng nhất trong các nước đó, Việt Nam.
Các Quan Hệ Trung Quốc – Sô Viết và Việt Nam Cho Đến Tháng Hai Năm 1979
Mặc dù Trung Quốc không phải là một nước tham dự vào cuộc xung đột Việt Nam trong các thập niên 1960 và 1970, sự ủng hộ vật liệu và kinh tế của Trung Quốc cho Việt Nam đã đóng một vai trò quan yếu. Trung Quốc đã không chỉ gửi các binh sĩ sang Việt Nam để trợ giúp việc duy trì các tuyến tiếp tế, sự ước lượng của Bắc Kinh về sự hỗ trợ của nó cho Hà Nội từ 1950 đrến 1978 đã vượt quá 20 tỷ [MỹKim?] (King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA, Hoover Institution Press, 1987). Vì thế, thật không khó khăn để hiểu rằng tại sao Bắc Kinh lại có thể động lòng trước các quan hệ được cải thiện giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nộivào cuối thập niên 1970.
Điều này đặc biệt đúng sau khi hai nước ký kết một hiệp ước phòng thủ hỗ tương vào ngày 3 Tháng Mười Một năm 1978 đặc biệt nhắm vào Trung Quốc. Theo một học giả, liên minh Sô Viết – Việt Nam này biến Việt Nam thành “mấu chốt” trong “nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc” của LBSV. (Robert A. Scalapino, “The Political Influence of the USSR in Asia”, trong sách biên tập bởi Donald S. Zagoria, Soviet Policy in East Asia (New Haven, Yale University Press, 1982), 71). Vì thế, theo quan điểm của Bắc Kinh, mưu toan của mạc Tư Khoa nhằm bao vây Trung Quốc về mặt ngoại giao rõ ràng trên bờ của sự thành công. Sự nhận thức này đã châm ngòi cho cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam trong Tháng Hai 1979.
Mặc dù các quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 nói chung tốt đẹp, các sự khác biệt về chính sách giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xa cách hơn sau sự sụp đổ của Sàigòn hồi Tháng Tư 1975. Trong Tháng Chín năm đó, Lê Duẩn, tổng bí thứ của ĐCSVN, đã du hành sang Bắc Kinh và trong hàng loạt các cuộc gặp gỡ sau khi Lê Duẩn đến nơi, điều trở nên rõ ràng rằng Trung Quốc rất quan tâm về các quan hệ chặt chẽ của Việt Nam với LBSV. Mặc dù các quan hệ tiếp tục xấu đi trong những năm kế tiếp, sự rạn nứt giữa Trung Quốc và Việt Nam đầu tiên chỉ trở nên rõ ràng khi hàng nghìn dân gốc Hoa bắt đầu chạy trốn khỏi Việt Nam trong mùa xuân và mùa hạ năm 1978. Ngoài ra, các sự tranh chấp lãnh thổ tại Quần Đảo Trường sa, cũng như trên cuộc xâm lăng gần đó của Việt Nam vào Căm Bốt, cũng đã làm gia tăng các sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Trong khi đó, các dấu hiệu gia tăng của sự hợp tác Sô Viết – Việt Nam cũng đã xuất hiện trong mùa hè 1978, khi Việt Nam yêu cầu trở thành một thành viên của khối COMECON. Ngoài ra, các nguồn tin chính phủ tại Hoa Kỳ có tường thuật rằng vào Tháng Tám 1978 có đến 4000 cố vấn Sô Viết có mặt tại Việt Nam. Trong Tháng Chín 1978, LBSV khởi sự việc thực hiện các chuyến chở vũ khí nhiều hơn sang Việt Nam, cả bằng đường hàng không lẫn đường biển, bao gồm “máy bay, hỏa tiễn, xe tăng, và đạn dược”. Sau cùng, tất cả các dấu hiệu này của việc cải thiện các quan hệ Sô Viết – Việt Nam đã thành tựu vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978, khi Việt Nam và LBSV ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác. Không có gì nghi ngờ rằng bản hiệp ước này được nhắm vào Trung Quốc, bởi điều thứ sáu tuyên bố rằng Việt Nam và LBSV sẽ “tức thời tham khảo lẫn nhau” nếu một bên bị “tấn công hay bị đe dọa tấn công … nhằm loại trừ mối đe đọa đó”. Theo sự tường thuật, bản hiệp ước này cũng bao gồm một nghị định thư bí mật chấp thuận các cho lực lượng quân sự Sô Viết được tiếp cận các “phi trường và hải cảng” của Việt Nam. (Ramesh Thaku[r] and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin’s Press, 1992), 61).
Mặc dù Việt Nam tuyên bố rằng nó đã ký kết bản hiệp ước này với LBSV để chặn đứng các hành vi của “phe phiêu lưu” Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh chắc chắn đã nhìn điều này như một phần trong các nỗ lực của Mạc Tư Khoa để áp lực Trung Quốc phải lùi bước và tải lập các điều khoản bất bình đẳng của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Nếu LBSV đã có khả năng thiết lập một bàn đạp tại Đông Nam Á, nó có thể thúc vào cạnh sườn của Trung Quốc ở cả hai biên giới phía bắc lẫn phía nam. Nếu thành công, chính sách này có thể mang lại cho Mạc Tư Khoa đủ đòn bẩy để buộc Bắc Kinh phải tái tục, hay ít nhất tái thương thảo, Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 theo các điều kiện của Mạc Tư Khoa. Một chỉ dấu ban đầu của mối quan tâm của Bắc Kinh về Hiệp Ước Sô Viết – Việt Nam được phát biểu bởi tờ Nhân Dân Nhật Báo cảnh cáo rằng Mạc Tư Khoa đang sử dụng Việt Nam chống lại Trung Quốc như nó đã cố gắng trước đây – và đã thất bại – trong việc dùng Cuba để tạo áp lực ngoại giao lên trên Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng cảnh cáo rằng mục đích tối hậu của Mạc Tư Khoa là “đặt toàn thể Đông Dương dưới sự kiểm soát của nó”.
Qua việc ký kết bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mười Một 1978, LBSV đã hy vọng sử dụng các quan hệ của nó với Việt Nam để phá hỏng cơ mưu và vượt thắng Trung Quốc. Mối quan tâm chính yếu của Trung Quốc rằng nếu các chính sách của LBSV tại Việt Nam thành công, khi đó chính quyền Sô Viết có thể buộc được một sợi dây thòng lọng quân sự và chiến lược vào cổ Trung Quốc. Suốt từ khi có sự rạn nứt Nga – Hoa, và đặc biệt kể từ khi có các cuộc xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết hồi cuối thập niên 1960, mục đích chủ yếu của Bắc Kinh đã là việc xây dựng tiềm năng quân sự của chính nó nhằm đối phó với Hồng Quân Sô Viết, một mục đích mà phần lớn nó đã đạt được từ khoảng giữa đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 khi quân số của QĐGPNDTQ được tường thuật đã vươn tới 3.6 triệu quân. Về mặt ngoại giao, Bắc Kinh vẫn tiếp tục gắng sức để thúc vào cạnh sườn Mạc Tư Khoa bằng việc chính thức bình thường hóa các quan hệ của nó với Hoa Thịnh Đốn hôm 1 Tháng Một 1979. Tác giả Ramses Amer đã kết luận rằng các liên minh mới của LBSV và Trung Hoa đã được nối kết một cách chặt chẽ: Chính vì thế hai liên minh chiến lược đã được tạo lập trong những tháng cuối cùng của năm 1978, một liên minh Sô Viết – Việt Nam, và một liên minh Trung Quốc – Mỹ, và chúng sẽ chế ngự trong khoảng một thập niên”.
Như một kết quả của sự tiến lại gần nhau giữa Trung Quốc và Mỹ hồi đầu năm 1979, mối quan tâm của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với các lực lượng của khối NATO do Mỹ cầm đầu tại phía tây và các lực lượng Trung Quốc tại phía đông được nâng cao. Điều này có thể đã thuyết phục Mạc Tư Khoa gia tăng sự ủng hộ của nó cho cuộc xâm lăng đang tiếp diễn của Việt Nam vào Căm Bốt, một biến cố mà tác giả Robert Ross đã nối kết một cách chặt chẽ với cuộc tấn công sau đó của Trung Quốc vào Việt Nam khi ông lập luận rằng sự tan vỡ của đồng minh thân cận của Trung Quốc tại Căm Bốt khiến cho Bắc Kinh phải lo ngại rất nhiều. Trong khi Bắc Kinh không sẵn lòng can thiệp một cách trực tiếp tại Căm Bốt để chặn đứng sự xâm lấn của V9ệt Nam, cuộc xâm lăng quân sự của Trung Quốc vào vùng lãnh thổ tranh chấp giữa Trung Quốc – Việt Nam trong thực tế đã “đồng bộ” một cách chặt chẽ với cuộc xâm lăng của Việt Nam tại Căm Bốt. Tác giả Ross còn kết luận thêm rằng các cuộc tranh chấp đang tiếp diễn tại Căm Bốt và biên giới Trung Quốc – Việt Nam đã có một “sự liên kết cơ hữu”, khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cảnh cáo Việt Nam đừng suy nghĩ một cách sai lầm rằng Trung Quốc thì “yếu ớt và dễ bị bắt nạt”.
Tuy nhiên, trong sự phân tích cuối cùng, Việt Nam là một nước tương đối nhỏ cả về mặt dân số lẫn sức mạnh quân sự, và rất có thể sự đến nơi đột ngột của các số lượng to lớn các cố vấn Sô Viết – ước lượng 5000 đến 8000 người vào giữa năm 1979 – và các số lượng khổng lồ các đồ tiếp tế quân sự đã báo hiệu không tốt cho an ninh chiến lược tức thời của Trung Quốc; chính vì thế, theo tác giả King C. Chen, “Nếu không có liên minh Sô Viết – Việt Nam, cuộc chiến tranh mười sáu ngày giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã không được giao tranh”. Trong một sự nhìn nhận rõ ràng rằng sự hợp tác quân sự của LBSV với Việt Nam đã khiến Trung Quốc lo ngại sâu xa, Đặng Tiểu Bình đã công khai thừa nhận rằng “liên minh quân sự” mới này giữa Sô Viết và Việt Nam thực sự đúng là một phần trong mục đích trong trường kỳ của LBSV mong muốn “bao vây Trung Quốc”.
Tiếp theo sau sự ký kết bản Hiệp Ước Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mười Một 1978, Bắc Kinh đã phải tìm kiếm một phương cách để phá vỡ mưu toan bao vây Trung Quốc của Sô Viết. Chính từ đó, nỗi lo sợ bị ép hai bên sườn bởi Mạc Tư Khoa đã là công cụ trong việc thúc đẩy Bắc Kinh phải hành động. Rõ ràng, bước tiến đầu tiên của Trung Quốc là trắc nghiệm quyết tâm của LBSV để xem là liệu nó có làm đúng theo hiệp ước của nó với Việt Nam hay liệu nó sẽ lùi lại và chấp nhận sự thất bại. Đặng Tiểu Bình còn được tường thuật có nói với Tổng Thống Carter trong Tháng Một 1979 rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ “làm sụp đổ các tính toán chiến lược của Sô Viết …” Hậu quả, ngay tác giả Ross đã kết luận rằng theo chân sự chiếm đóng thành công của Việt Nam tại Căm Bốt, chính sự “bao vây phát sinh của Sô Viết nhắm vào Trung Quốc đã nhất thiết tạo ra một cuộc xâm lăng hạn chế vào Việt Nam”.
Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979
Các lực lượng Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai năm 1979. Mặc dù các động lực xác thực nằm dưới cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn còn được mở ngỏ cho sự giải thích, mối quan ngại của Bắc Kinh rằng hiệp ước phòng thủ hai mười lăm năm của Mạc Tư Khoa với Hà Nội có thể dẫn dắt đến việc quân sự hóa của Sô Viết vùng biên giới Trung Quốc – Việt Nam chắc chắn đã là một yếu tố quan trọng; Mạc Tư Khoa có thể cũng đã hy vọng rằng bản hiệp ước của nó với Hà Nội sẽ làm chuyển hướng các bộ đội Trung Quốc khỏi miền bắc, do đó làm suy yếu sự phòng thủ quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết.
Tuy nhiên, các hy vọng của Mạc Tư Khoa đã bị tan tành khi Bắc Kinh quyết định tiến đánh Việt Nam. Chỉ sau ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc đã triệt thoái và các tranh chấp trên biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn chưa được giải quyết. Đối với phần lớn các người bên ngoài, hành động quân sự của Trung Quốc chính vì thế rõ ràng là một sự thất bại. Nhưng nếu mục đích thực sự đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm bộc lộ các sự bảo đảm của Sô Viết về sự ủng hộ quân sự cho Việt Nam là một sự dối trá, khi đó sự từ khước của LBSV để can thiệp đã chấm dứt một cách hữu hiệu bản hiếp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam. Chính vì thế, Bắc Kinh đã đạt được một thắng lợi chiến lược rõ ràng bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và bằng việc loại trừ sự đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trân.
Vào ngày 15 Tháng Hai, 1979, không chỉ là ngày đánh dấu 29 năm sự thỏa thuận của họ Mao và Stalin về Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên mà Trung Quốc có thể chính thức loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Sô Viết – Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố rằng Trung Quốc đã hoạch định để thực hiện một cuộc tấn công hạn chế đánh Việt Nam. Để ngăn cản sự can thiệp của Sô Viết nhân danh Việt Nam, họ Đặng đã cảnh cáo Mạc Tư Khoa trong ngày kế đó rằng Trung Quốc đã chuẩn bị một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại LBSV; trong sự chuẩn bị cho cuộc xung đột này, Trung Quốc đã đặt toàn thể binh sĩ của nó dọc theo biên giới Trung Quốc – Sô Viết vào sự báo động chiến tranh khẩn cấp, thiết lập một bộ chỉ huy quân sự mới tại Tân Cương, và còn cho di tản khoảng 300,000 thường dân ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết (Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89).
Ngoài ra, khối các lực lượng ứng chiến của Trung Quốc (nhiều đến nửa triệu binh sĩ) được đồn trú dọc biên giới của Trung Quốc với LBSV. (Robert A. Scalapino, “Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union”, trong sách biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA, Auburn House Publishing Company, 1986), 28).
Như hứa hẹn, cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc đánh Việt Nam khởi sự hôm 17 Tháng Hai, 1979, trong vòng ba ngày kỷ niệm lần thứ 29 bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Như họ Đặng đã loan báo, ngay từ bước khởi đầu Trung Quốc đã thực hiện một hoạt động hạn chế chống lại Việt Nam. Không chỉ nhiều binh sĩ thiện chiến nhất của Trung Quốc được đồn trú dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết, Bắc Kinh còn quyết định không điều động khoảng 500 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ mà nó đã cho đồn trú trong khu vực. Để đáp ứng lại cuộc tấn công của Trung Quốc, LBSV đã phái vài tàu hải quân và khởi sự một cuộc không vận vũ khí Sô Viết sang Việt Nam. Vào ngày 22 Tháng Hai 1979, Đại Tá N. A. Trarkov, tùy viên quân sự Sô Viết, tại Hà Nội, còn đe dọa rằng LBSV sẽ “thi hành các trách vụ của nó chiếu theo bản hiệp ước Sô Việt – Việt Nam”; tuy nhiên, ở các nơi khác, các nhà ngoại giao Sô Viết có nói rõ rằng LBSV sẽ không can thiệp chừng nào cuộc xung đột vẫn còn được hạn chế. (John Blodgett, “Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?”, trong sách biên tập bởi Rodney W. Jones và Steven A. Hildreth, Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). LBSV rõ ràng không có ý định mạo hiểm vào một cuộc chiến tranh toàn diện với Trung Quốc vì Việt Nam.
Sau ba tuần lễ giao tranh dữ dội, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng nó đã chiếm đoạt được ba trong sáu tỉnh lỵ của Việt Nam – Cao Bằng, Lạng Sơn, và Lào Cai – nằm giáp ranh với Trung Quốc. Mặc dù các lực lượng Trung Quốc có tổng số hơn một phần tư triệu quân, phía Việt Nam đã dùng các chiến thuật để cướp đi một thắng lợi mau chóng của phía Trung Quốc. Khi Bắc Kinh loan báo ý định của nó để triệt thoái các bộ đội của nó hôm 5 Tháng Ba, 1979, vì thế, rõ ràng là các mục đích chủ yếu của cuộc tấn công này vẫn chưa đạt được; tức, tiềm năng quân sự của Việt Nam chưa bị tổn hại nghiêm trọng bởi Trung Quốc. Từ đó về sau, biên giới Trung Quốc – Việt Nam vẫn còn căng thẳng khi, sau chưa đầy ba tuần lễ giao tranh, Trung Quốc triệt thoái khỏi Việt Nam.
Đối với nhiều quan sát viên bên ngoài, điều rõ ràng rằng cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam đã là một sự thất bại trọn vẹn và tổng quát. Nhưng như tác giả Banning Garrett đã nhận xét một cách chính xác, “phía Trung Quốc đã chứng tỏ rằng họ đã có thể tấn công một đồng minh của Sô Viết mà không có sự trả đũa từ “con gấu bắc cực bằng giấy”. (Banning Garrett, “The Strategic Triangle and the Indochina Crisis”, trong sách biên tập bởi David W. P. Elliott, The Third Indochina Conflict (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212).
Trong thực tế, bằng việc chứng minh rằng LBSV sẽ không tích cực can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc vững tin rằng sự chấm dứt của nó bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh. Kết quả, vào ngày 3 Tháng Tư, 1979, Bắc Kinh đã loan báo các ý định của nó nhằm chấm dứt bản Hiệp Ước Thân Hữu, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Từ đó về sau, mặc dù các cuộc thương thuyết giữa Trung Quốc và Sô Viết được mở ra một cách chính thức trong Tháng Mười 1979, cuộc xâm lăng của Sô Viết vào A Phú Hãn đã mang lại cho Trung Quốc một duyên cớ để bãi bỏ các cuộc họp tương lai, theo đó loại trừ bất kỳ nhu cầu tức thời nào để thương thảo một hiệp ước ngoại giao mới giữa Trung Quốc và Sô Viết.
Bởi vì các động lực đích thực nằm dưới cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn chưa được rõ, các học giả nghiên cứu cuộc xung đột này đã đề xướng ra nhiều lý thuyết vững chắc khả tín. Có lẽ lý thuyết thông thường nhất rằng Trung Quốc mong muốn “trừng phạt” Việt Nam vì việc xâm lăng Căm Bốt, một khu vực trước đây đã từng được xem là một nước triều cống đối với đế quốc Trung Hoa. Các vấn đề khác giữa Trung Quốc – Việt Nam, chẳng hạn như các sự tranh chấp lãnh thổ tại Quần Đảo Trường Sa và cuộc di cư ồ ạt của dân gốc Hoa từ Việt Nam, cũng đã được phác họa như có đóng giữ một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, điều khả tín nhất là một số tương đối nhỏ các nhà học giả đã lập luận rằng quyết định của Việt Nam để phát huy các quan hệ gần gủi hơn với LBSV đã là lý do chính yếu đàng sau cuộc tấn công của Trung Quốc.
Trong số các học giả này, các người đã nêu giả thuytết rằng các hành động của Trung Quốc là một sự đáp ứng đối với bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam ngày 3 Tháng Mười Một 1978, đã có một loạt rộng lớn các sự giải thích về việc liệu chính sách của Trung Quốc đã là một sự thành công hay thất bại. Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc đã thất bại bởi vì nó đã không đặt bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam vào sự “trắc nghiệm tối hậu”. Tác giả Robert Ross cũng đã kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một sự thất bại, mặc dù ông tích cực hơn Segal bằng việc cho rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt là lần đầu tiên kể từ năm 1949 mà Trung Quốc đã sử dụng vũ lực khi lãnh thổ của nó không bị đe dọa một cách trực tiếp, chính vì thế chứng tỏ rằng Trung Quốc giờ đây có khả năng để “hành động như một quyền lực cấp vùng với các quyền lợi cấp vùng”. Sau cùng, tác giả Banning Garrett và Nayan Chanda thì tích cực hơn, ít nhất công nhận các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh Trung – Việt dở dang đã là một sự thành công bởi nó chứng tỏ rằng LBSV là một “con gấu bắc cực bằng giấy”vì Mạc Tư Khoa từ khước không thi hành các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó nhân danh Hà Nội.
Có lẽ quan điểm tích cực nhất về cuộc xung đột Trung – Việt đến từ tác giả Chang Pao-min. Theo tác giả Chang, khi người ta cứu xét cuộc xung đột này từ một quan điểm của Bắc Kinh, khi đó bản hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Viết Nam năm 1978 đã là một sự đe dọa rõ ràng đến an ninh của Trung Quốc. LBSV đã không chỉ hy vọng sử dụng hiệp ước này để dựng lên một “Hệ Thống An Ninh Tập Thể Á Châu” nhắm vào Trung Quốc, nhưng các quan hệ quân sự của nó với Việt Nam được mô tả như một mưu toan để “đe dọa và nỗ lực nhằm trói buộc Trung Quốc từ phía nam”; trong khía cạnh này, Việt Nam được mô tả trong các lời tuyên bố sau này của Trung Quốc như là “con dao mà Liên Bang Sô Viết kề sau lưng Trung Quốc”. Do đó, như tác giả Chang nhận xét, cuộc xung đột Trung – Việt phải được nhìn như một phản ứng trước mưu toan của Liên Bang Sô Viết muốn dùng Việt Nam “để ngăn chặn và bao vây Trung Quốc tại Đông Nam Á … [chính vì thế đặt ra] một sự đe dọa nghiêm trọng cho cạnh sườn phía nam của Trung Quốc”.
Các lập luận trình bày trong bài viết này có khuynh hướng ủng hộ quan điểm rằng cuộc chiến tranh Tháng Hai 1979 của Trung Quốc với Việt Nam đã là một sự thành công. Một khi Bắc Kinh tin tưởng rằng Mạc Tư Khoa sẽ không can thiệp nhân danh Hà Nội, điều này khiến cho Bắc Kinh mạnh dạn để đoạn tuyệt hoàn toàn với Mạc Tư Khoa; sự đoạn tuyệt này có thể nhận thấy rõ nhất trong lời loan báo hôm 3 Tháng Tư 1979 của Bắc Kinh rằng nó có ý định chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950. Như bằng chứng cuối cùng rằng các chính sách của Trung Quốc tại Việt Nam được nối kết một cách rối rắm với LBSV, tác giả Amers đã ghi nhận nhận một cách xác thực rằng quyết định năm 1988 của Trung Quốc về việc gỡ bỏ các quan hệ biên giới của nó với Việt Nam ra khỏi vấn đề Căm Bốt tuơng ứng gần như chính xác với các nỗ lực của Gorbachev nhằm bình thường hóa các quan hệ với Trung Quốc và cải thiện các quan hệ của LBSV với các quốc gia thuộc khối ASEAN. Chính vì thế, bằng việc phá vỡ sự bao vây của Sô Viết và loại trừ được mối đe dọa của Mạc Tư Khoa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược quan trọng đối với LBSV.
LBSV Có Phải Là “Con Gấu Bắc Cực Bằng Giấy”?
Các học giả Tây Phương gần như nhất trí kết luận rằng cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam là một sự thất bại. Thí dụ, theo tác giả Gerald Segal, “cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979 đã là một sự thất bại trong chính sách ngoại giao quan trọng nhất kể từ 1949”. Tác giả Robert Roos đã đồng ý phần lớn, phát biểu: “Sự thất bại trong chính sách của Trung Quốc nhấn mạnh vai trò mơ hồ của quyền lực cấp vùng trong chính trị quốc tế đương đại”. Gần đây nhất, tác giả Ellis Joffe, một chuyên viên về QĐGPNDTQ tại Đại Học Hebrew University tại Jerusalem, đã kết luận: “Trung Quốc bị tổn thương bởi các biện pháp hạn chế chống lại Việt Nam hồi năm 1979. Trung Quốc tìm cách giảng dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học”. (“Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China”, Far Eastern Economic Review, 8 Tháng Hai 1996, 20-21.)
Các sự lượng định tiêu cực này của Tây Phương thì tương phản một cách sắc nét với các lời tuyên bố của chính Bắc Kinh rằng cuộc chiến tranh năm 1979 của nó chống lại Việt Nam là một sự thành công, bởi vì quyết định của Mạc Tư Khoa không can thiệp chứng tỏ rằng LBSV chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy”. Bắc Kinh rõ ràng sẵn lòng hậu thuẫn lời tuyên bố này bằng hành động, khi nó không chỉ loan báo sự chấm dứt bản Hiệp Ước Sô Viết – Trung Quốc năm 1950 mà rồi sau này còn chuyển đến Mạc Tư Khoa ba điều kiện tiên quyết cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết. Ba điều kiện tiên quyết này gồm: 1) triệt thoái bộ đội Sô Viết ra khỏi biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, 2) triệt thoái binh sĩ Sô Viết ra khỏi A Phú Hãn, và 3) đình chỉ sự ủng hộ của Sô Viết cho sự xâm nhập của Việt Nam vào Căm Bốt. (Yao Wengin, “Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China’s Security”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.)
Vì thế, ngoài việc chấp nhận một vị thế khẳng định hơn trong các quan hệ của nó với LBSV, các lân bang phía nam của Trung Quốc cũng buộc phải đối xử với Trung Quốc với nhiều sự nể trọng hơn; theo một báo cáo năm 1986, bởi Hà Nội bị thua ván cờ năm 1979 rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ thực sự tấn công, Việt Nam, “bị trừng phạt bởi kinh nghiệm năm 1979, giờ đây đồn trú 700,000 quân chiến đấu tại phần phía bắc của xứ sở”. (Karl D. Jackson, “Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War”, trong sách đồng biên tập bởi Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.)
Vai trò khẳng định hơn của Trung Quốc tại Á Châu trong suốt thập niên 1980 vì thế khiên ta nghĩ rằng Bắc Kinh đã thực sự tin tưởng rằng nó đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979. Chính từ đó, mặc dù tác giả Nayan Chanda và các tác giả khác cảnh cáo rằng các lời tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV đã chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” có thể hoàn toàn là sự tuyên truyền, các hành động của chính Bắc Kinh cho thấy rằng họ tin tưởng một cách vững chắc quan điểm này. Chính vì lý do này mà các cuộc thảo luận gần đây về thời điểm khi mà Cuộc Chiến Tranh Lạnh thực sự được chấm dứt sẽ rõ ràng có một sự liên quan trực tiếp đến sự xác quyết năm 1979 của Bắc Kinh rằng Mạc Tư Khoa đã sẵn quá yếu kém để giao chiến. Trong thực tế, theo cái nhìn của Trung Quốc, sự thất bại của LBSV không can thiệp nhân danh Việt Nam trong năm 1979 đã là bằng chứng tích cực rằng Mạc Tư Khoa đã không còn lòng dạ để chiến đấu một cuộc chiến tranh quan trọng; nói cách khác, kỷ nguyên nguy hiểm nhất của Chiến Tranh Lạnh đã sẵn qua đi.
Cho đến nay, cuộc thảo luận phổ quát rằng liệu Cuộc Chiến Tranh Lạnh đã thực sự bị vượt qua sớm hơn sự sụp đổ của Bức Tưiờng Bá Linh năm 1989 vốn xoay quanh các lời tuyên bố được đưa ra bởi viên Tướng 4 Sô Viết bốn sao Anatoly Gribkov, cựu tham mưu trưởng Thỏa Ước Warsaw hồi đầu thập niên 1980. Gribkov đặt các lập luận của ông trên sự kiện rằng vào Tháng Mườì Hai năm 1981, Bộ Chính Trị Sô Viết rõ ràng đã đánh mất ý chí chính trị để sử dụng vũ lực nhằm giữ vững sự kiểm soát đế quốc mở rộng của họ. Sự lượng định này được dựa tre6n sự từ khước của Bộ Chính Trị không gửi binh sĩ đến Ba Lan để phá tan một sự nắm quyền bính của phe dân chủ, một dấu hiệu của sự suy yếu mà Gribkov vạch ra như bằng chứng rằng LBSV đã thực sự “thua” Cuộc Chiến Tranh Lạnh ngay từ 1981. (The Two Trillion Dollar Mistake”, Worth, (February 1996), 78-83/128-129.)
Biên bản một phiên họp của Bộ Chính Trị Sô Viết từ ngày 10 Tháng Mười Hai 1981 được giải mật gần đây có khuynh hướng hậu thuẫn cho sự tuyên xác của Gribkov, qua việc phô bày rằng giải pháp gửi binh sĩ chống lại đảng “Liên Đới: Solidarity” của Ba Lan được bác bỏ một cách nhất trí bởi Mạc Tư Khoa vì có sự bất trắc quá to lớn. (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (spring 1995), 135-137). Ngoài ra, các biên bản này cũng tiết lộ rằng Bộ Chính Trị đã cứu xét một cách nghiêm trọng sự thoái bộ tại vùng Viễn Đông qua việc ra lệnh rút quân Sô Viết ra khỏi Mông Cổ; nếu Mạc Tư Khoa thực sự thi hành kế hoạch này, khi đó nó đã nhượng bộ một trong ba điều kiện tiên quyết của Bắc Kinh cho việc cải thiện các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết.
Các tài liệu Sô Viết này, và các tài liệu khác tương tự như chúng, rõ ràng hậu thuẫn cho lời xác quyết của Gribkov rằng vào năm 1981 giới lãnh đạo Sô Viết đã sẵn mất khả năng sử dụng vũ lực hầu chống đỡ đế quốc Sô Viết đang tan tành. Chính cùng lý luận này cũng có thể áp dụng cho cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979, bởi cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam rõ ràng đặt ra một sư đe dọa thực sự cho an ninh và sự ổn định của khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Đông Nam Á. Chính sự kiện rằng Bộ Chính Trị Sô Viết từ khước không chu toàn các nghĩa vụ theo hiệp ước của nó với Việt Nam và đã từ chối can thiệp chống lại Trung Quốc khiến ta nghĩ rằng lập luận của Gribkov cho rằng Bộ Chính Trị Sô Viết đã mất ý chị chính trị để duy trì đế quốc của nó lại với nhau bằng vũ lực cũng có thể áp dụng một cách đồng cân sức – nếu không phải nhiều hơn – cho kết cuộc của cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 1979.
Sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh năm 1989 và sự tan rã không ngờ của LBSV năm 1991 đòi hỏi một sự lượng định mới về tác động của các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết trên cuộc xung đột Trung – Việt Tháng Hai 1979. Một khía cạnh của sự lượng định này phải được cứu xét liệu lời tuyên xác năm 1979 của Trung Quốc rằng LBSV đã sẵn là một “con gấu bắc cực bằng giấy” giờ đây có vẻ khả tín hơn chiếu theo sự giải tán sau này của LBSV. Mặc dù lời tuyên xác của Gribkov rằng Chiến Tranh Lạnh đã sằn bị vượt qua năm 1981 có thể sớm hơn nhiều thời hạn mà phần lớn các học giả Tây Phương sẵn lòng chấp nhận, nó đi sau vài năm theo cái nhìn của Trung Quốc. Vì thế, trong sự hậu xét, hạn kỳ 1979 của Trung Quốc không chỉ có vẻ khả tín, mà đối với các học giả tương lai, một ngày nào dó, thời điểm 1979 có thể chứng tỏ rằng còn chính xác hơn năm 1981. Nếu như thế, khi đó Bắc Kinh phải được dành cho công lao thích đáng cho việc xác định một cách chính xác các triệu chứng Viễn Đông trong các nhược điểm nội tại của Mạc Tư Khoa sớm hơn hai năm trước khi các dấu hiệu tương tự trở nên nhận thức được bởi khối Tây. Điều này khi đó nêu lên câu hỏi liệu “bước khởi đầu của sự kết thúc” Chiến Tranh Lạnh đã thực sự xảy ra trong năm 1979, do kết quả của sự từ khước của Mạc Tư Khoa chấp nhận sự thách đố trơ tráo của Bắc Kinh đối với ưu thế quân sự của LBSV tại Viễn Đông hay không.
Kết Luận
Các cuộc nghiên cứu trước đây về cuộc xung đột Trung – Việt ngày 17 Tháng Hai 1979 nói chung phác họa các hành động của Trung Quốc như một sự thất bại tuyệt đối. Bài viết này, ngược lại, đã nỗ lực để tái lượng giá cuộc chiến tranh Trung – Việt dưới khía canh các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết bằng việc liên kết cuộc xung đột này với lần kỷ niệm 29 năm ngày ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết hôm 14 Tháng Hai năm 1950. Như một kết quả trực tiếp của quyết định của Sô Viết không can thiệp nhân danh Việt Nam, Trung Quốc trở nên tin tưởng rằng LBSV thiếu mất ý chí chính trị để vận dụng đến chiến tranh hầu chống đỡ khu vực ảnh hưởng của Sô Viết tại Á Châu. Sự tin tưởng này đã dẫn dắt Bắc Kinh đến việc thông báo Mạc Tư Khoa hôm 3 Tháng Tư 1979 rằng Trung Quốc có ý định chấm dứt bản Hirệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 khi đạt tới hết thời hiệu 30 năm của nó vào năm 1980.
Từ 1950 cho đến 1979, Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là nền tảng trên đó các quan hệ Trung Quốc – Sô Viết được đặt định. Mặc dù các phần được công bố của bản hiệp ước này được cung cấp từ lâu, nội dung đích thực của các nghị định thư bí mật đính kèm bản hiệp ước này phần lớn vẫn chưa được hay biết. Tuy nhiên, với các nghị định thư bí mật này liên hệ đến các sự tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Sô Viết khá rõ ràng, và trong các thập niên 1950 và 1960 các sự tranh chấp biên giới thường xuyên giữa LBSV và Trung Quốc đã phản ảnh mức độ căng thẳng mà các nghị định thư bí mật đã sản sinh ra. Mặc dù không có một trong các cuộc xung đột biên giới Trung Quốc – Sô Viết nào được phép để leo thang thành chiến tranh toàn diện, Bắc Kinh tiếp tục trắc nghiệm quyết tâm của LBSV để xem liệu nó có vận dụng đến vũ lực hầu chống đỡ cho các điều khoản của Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 hay không. Chính từ đó, trong quan điểm của Bắc Kinh, bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 đã là công cụ trọng yếu qua đó Mạc Tư Khoa đã cố gắng để hành sử “bá quyền” của nó trên Trung Quốc và khắp phần còn lại của Á Châu.
Ngược lại, Mạc Tư Khoa rõ ràng quan tâm đến những gì có thể xảy ra khi Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết đạt tới thời hiệu 30 năm của nó. Khởi sự trong năm 1969, LBSV thường xuyên thúc dục Trung Quốc thay thế bản hiệp ước này bằng một thỏa ước nới. Để buộc Bắc Kinh lùi bước, Mạc Tư Khoa đã không chỉ gia cố các biên giới Trung Quốc – Sô Viết và Mông Cổ, nó còn thực hiện áp lực Trung Quốc từ phía nam, bằng việc hoàn tất một hiệp ước liên minh với Việt Nam. Chính từ đó, sự cải thiện các quan hệ Sô Viết – Việt Nam, lên đến cực điểm với sự ký kết hiệp ước phòng thủ Sô Viết – Việt Nam hôm 3 Tháng Mườu Một 1978, có thể được nối kết một cách trực tiếp với các quan hệ đang tồi tệ của Trung Quốc với LBSV vào cuối thập niên 1970. Tuy nhiên, thay vì lùi bước, Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam hôm 17 Tháng Hai, 1979, chỉ ba ngày sau lễ kỷ niệm thứ 29 ngày ký kết bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950. Khi Mạc Tư Khoa từ khước can thiệp nhân danh Hà Nội, Bắc Kinh đã quyết định rằng Bộ Chính Trị Sô Viết sẽ không vận dụng đến chiến tranh để buộc Trung Quốc phải duy trì bản Hiệp Ước Trung Quốc – Sô Viết năm 1950 và như thế đà mạnh dạn loan báo hôm 3 Tháng Tư 1980 rằng nó có ý định chấm dứt bản hiệp ước này.
Một trong các mục đích chính yếu của Bắc Kinh trong việc tấn công Việt Nam là nhằm bảo đảm rằng Trung Quốc không bị bao vây cả phía bắc lẫn phía nam bởi các lực lượng Sô Viết. Cuộc xâm lăng năm 1979 của Trung Quốc vào Việt Nam, bất kể các sự khuyết điểm hiển nhiên của nó, đã đạt được mục tiêu chiến lược này bởi sự từ khước của LBSV để can thiệp nhân danh Việt Nam đã triệt hạ mối đe dọa một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với LBSV và Việt Nam. Trên bình diện ngoại giao, Trung Quốc cũng giành đạt được một chiến thắng rõ ràng chống lại các mưu toan của Sô Viết nhằm áp lực Trung Quốc tiến tới việc ký kết một hiệp ước mới để thay thế hay bổ túc bản Hiệp Ước Hữu Nghị, Liên Minh, và Trợ Giúp Hỗ Tương giữa Trung Quốc – Sô Viết ngày 14 Tháng Hai, 1950. Sau cùng, khi nhìn lại sau này, sự tuyên bố của Trung Quốc rằng LBSV thực sự chỉ là một “con gấu bắc cực bằng giấy” rõ ràng khá chính xác, và chính vì thế tương trưng có lẽ cho dấu hiệu bên ngoài đầu tiên rằng đế quốc Sô Viết đã bị đe dọa bởi sự tan rã bên trong, một sự tan rã chỉ trở nên hiển hiện mười năm sau này với sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh và với sự giải tán của LBSV năm 1991./-
Nguồn: Bài tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold War: Reassessing Vietnam”, được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét