Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÁNH TẠI TRUNG QUỐC

...Khi thủy triều xuống, chúng ta trở lại chuyện kinh tế cũng là chính trị.

Trung Quốc tưởng là tìm ra phép thần kỳ với chiến lược tăng trưởng bằng đầu tư, tín dụng và xuất cảng. Nhưng chỉ có lượng mà thiếu phẩm. Đầu tư ào ạt gây lãng phí, tham ô. Khối tín dụng dồi dào thổi lên bong bóng và trở thành một núi nợ sẽ sụp. Trong khi ấy xuất cảng giảm sút vì các thị trường Âu-Mỹ-Nhật đều co cụm. Lãnh đạo Bắc Kinh ý thức được sự hiểm nguy đó nên cố chuyển qua chiến lược khác.

Nhưng khi cỗ xe quẹo cua thì cũng là lúc dễ lật.
//


Nguyễn-Xuân Nghĩa -

Thủy Triều Xuống - Trồi Lên Một Núi Nợ...


* Nhà ga Vũ Hán hiện đại và vĩ đại - mà vắng khách *


Khi Chủ tịch Tập Cận Bình khoa trương sức mạnh kinh tế Trung Quốc tại thượng đỉnh Mỹ-Hoa ở Rancho Mirage thì một ngân hàng Trung Quốc vỡ nợ. Sau đó là một chuỗi biến động...

Everbright Bank hay Đại Quang Ngân hàng là ngân hàng đầu tư đứng hạng 11 của Trung Quốc về ngạch số tài trợ, và là chi nhánh của tập đoàn Đại Quang, cơ sở quốc doanh thuộc hệ thống Hối Kim Trung Uơng, Central Huijin, là tập đoàn đầu tư chi nhánh của Công ty Đầu tư Trung Quốc CIC, tập đoàn tài chánh do Quốc vụ viện (Hội đồng Chính Phủ) Trung Quốc quản lý qua Bộ Tài chánh.

Từ Everbright qua Đại Quang Đầu Tư lên Hối Kim, rồi CIC, Bộ Tài chánh và Quốc vụ viện, một chuỗi doanh nghiệp lồng vào nhau như búp bê Nga, trong bàn tay phù thủy của nhà nước....

Hôm mùng sáu Tháng Sáu, ngân hàng Everbright không trả được món nợ sáu tỷ đồng Nguyên, tương đương với 980 triệu Mỹ kim. Chủ nợ là Industrial Bank Co. hay Hưng nghiệp Ngân hàng tại Phúc Kiến bị vạ lây, không trả được nợ. Nói hoa mỹ là "vi ước" hay lỗi hẹn, nôm na là mấp mé vỡ nợ.

Nhiều trường hợp tương tự cũng đã xảy ra....

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

NHỮNG NGÀY MƯA...CHÓ MÈO


June 20, 2013

Người Mỹ có câu thành ngữ thông dụng…raining cats and dogs…mưa quá to, giông bão tơi bời vì quá nhiều sự việc dồn dập. Ở Việt Nam, mưa thực sự đem theo rất nhiều chó và mèo.

Trước hết, một bài báo có nhiều người đọc từ BBC nói về một nhân vật từ Úc, bà Michele Brown, thuộc hội bảo vệ súc vật. Khi làm một phóng sự về tệ nạn ăn thịt chó của người Việt, bà và người tài xế bị rượt đánh suýt chết. Bà này có làm một cuốn phim tài liệu trình chiếu tại hội phim Cannes về nạn ăn thịt chó mèo của người Trung Quốc và người Việt. Phim tạo một truyền cảm ghê rợn cho khán giả và gây ra một tai hại rất lớn cho những “cảm tình” mà các trí thức Âu Mỹ dành cho người Tàu và người Việt.

Chúng ta phải hiểu về phong tục và văn hóa của các dân tộc da trắng Âu Mỹ (Caucasian). Trong bậc xếp hạng về vị trí vai vế trong xã hội, thú vật nuôi trong nhà (pets) đứng sau trẻ em và đàn bà nhưng trước đàn ông. Mỗi năm, tiền chi tiêu mua sắm cho các pets tại Mỹ nhiều hơn ngân sách của toàn thể chánh phủ Phi Châu. Có thể vì sợi giây gia đình không bền chặt nên người Âu Mỹ thân thiết với các pets hơn các mối liên hệ xã hội khác. Dù thế nào, giết pets ở Mỹ là tội hình sự; và người ăn thịt chó mèo được xem như là man rợ, rừng rú và đáng khinh bỉ.

Điều quan trọng ở đây là chuyện của bà Brown không phải là tít lớn duy nhất trên các mạng truyền thông Âu Mỹ. Gần đây, nhiều phóng sự bài vở với góc nhìn rất tệ hại về Việt Nam lan tràn khắp nơi. Chuyện ăn thịt chó mèo, chuyện tội phạm Việt trồng ma túy cần sa khắp Canada, Anh và Mỹ, chuyện đại gia Việt phá rừng ở Lào và Kampuchia, chuyện buôn người ở Đông Âu, chuyện rửa tiền và tham nhũng, chuyện bắt giữ các bloggers, chuyện khách du lịch bị chặt chém và lừa bịp, chuyện ngăn chận Facebook…Nói tóm lại, các mạng truyền thông thế giới đã trở thành “thế lực thù địch” lớn nhất của chế độ hiện nay.

Tôi còn nhớ trước 1975, khi Mỹ muốn thay đổi chính sách ở Việt Nam sau khi đi đêm với Trung Quốc (qua cuộc viếng thăm lịch sử của Nixon ở Tàu vào 1972), các giới truyền thông Âu Mỹ tấn công mạnh mẽ vào chánh quyền Thiệu và quân đội VNCH. Bọn họ moi móc và ngụy tạo không biết bao nhiêu là bài vở rất tệ hại cho hình ảnh miền Nam VN. Với sự góp tay của các trí thức khuynh tả, đây thực sự là một chiến dịch PR điều khiển từ White House để chuẩn bị dư luận. Vì lá phiều của cử tri vô cùng thiết yếu cho sự sinh tồn của các chính trị gia Âu Mỹ, “chuẩn bị dư luận” luôn luôn là một báo hiệu cho những bước đi kế tiếp.

Xin nói rõ tôi không biết một điều gì khác ngoài việc “đọc và suy ngẫm” những thông tin đã xuất bản. Nhưng từ các sự kiện trên, tôi tự hỏi “các trận mưa…chó mèo này đang muốn nhắc nhở tôi về một điều gì?”

Alan Phan

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

ODA, FDI: NỢ CÔNG VÀ THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM

Lâm Văn Bé

14.02.2012 Để cứu giúp Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng chậm tiến và bần cùng, tháng 11 năm 1993, một số quốc gia phát triển và các quỹ tiền tệ quốc tế họp tại Paris để chấp nhận tài trợ cho Việt Nam với chương trình ODA và trước đó vài năm, một số doanh thương ngoại quốc cũng đã bắt đầu đem vốn đến Việt Nam đầu tư dưới dạng FDI.

Ngoại tệ ào ạt đổ vào Việt Nam. Một số hạ tầng cơ sở được trùng tu phát triển, các tòa nhà chọc trời của giới tư bản được dựng lên tại các thành phố lớn. Bộ mặt của xã hội chủ nghĩa đã nhanh chóng đổi thay cùng nhịp với sự thay hình đổi dạng của các cán ngố. Một giai cấp mới tư bản đỏ xuất hiện, làm giàu với một vận tốc phi mã bằng tham nhũng trên số ngoại tệ tài trợ và tài sản quốc gia, khiến đất nước bên ngoài trông có vẻ «văn minh» hơn, nhưng che giấu bên trong một thực trạng phân cách giàu nghèo trầm trọng, số nợ công thêm chồng chất và vụ thất thoát 5 tỷ mỹ kim của công ty Vinashin là điển hình của chánh sách tham nhũng và bạo lực của Việt Nam hôm nay.

Bài viết đề cập đến một vấn đề tuy «đã nghe, đã đọc», nhưng những con số kinh hoàng sẽ giúp độc giả biết rõ hơn một hiểm họa đè nặng trên vai của nhiều thế hệ người Việt về những món nợ công mà tập đoàn tham nhũng cộng sản từ nhiều thập niên qua đã vơ vét tận tình.

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

CON THUYỀN KHÔNG BẾN



T/S Alan Phan

17 June 2013


Con người thực sự có giáo dục khi hắn biết cách học và thay đổi – Carl Rogers (The only person who is educated is the one who has learned how to learn and change.)

Cha tôi là người nặng tình với quê hương. Khi chúng tôi chưa biết nghe, ông đã nhét tình yêu này vào mấy đứa con qua các bài ru, qua những điệp khúc về quê Quảng Trị nơi “đất cầy lên sỏi đá”, nơi “ đêm đêm có tiếng o nghèo thở dài”, nơi “trời làm cơn lụt mỗi năm”…Giọng hát ông trầm buồn chậm chạp. Bài ông thích nhất là “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong. Có lẽ trong tiềm thức, ông đã tiên tri về định mệnh quốc gia, 68 năm sau, khi chúng ta thực sự ngồi trên một con thuyền không bến?

Quỹ học bổng VEF

Cuối tuần qua tôi quay lại Nha Trang để dự một hội thảo do quỹ VEF (Vietnam Education Foundation) tổ chức. Quỹ được thành lập và điều hành trực tiếp từ White
House
với mục tiêu cung cấp học bổng cho các sinh viên Việt Nam qua học tại các trường đại học Mỹ và các giáo sư Mỹ qua giảng dậy ở Việt Nam. Suốt 9 năm qua (từ khi Tổng Thống Clinton khởi động), VEF đã giúp cho hơn 500 sinh viên VN đi học hậu đại học (Ph.D. và Masters) và khoảng 100 giáo sư Mỹ qua VN. Buổi hội thảo rồi là cuộc hội tụ hàng năm của các cựu sinh viên VEF, có hơn 100 người tham dự.

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

CON CHÁU CÁC CỤ (4C) Ở VIỆT NAM


Lâm Văn Bé

———————–

Xin nói ngay các cụ đây không phải các cụ già trong hàng dân dã mà là các cụ ủy viên trong Trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Chế độ Cộng Sản Việt Nam hôm nay không phải chỉ là chế độ đảng trị mà thực sự là một chế độ quân chủ chuyên chế trong đó tập thể con cháu, hàng họ các đảng viên cao cấp thay phiên nhau cầm quyền và bốc lột người dân giống như thuở các triều đại khi xưa.

Bài viết sau đây là một sưu tập các 4C, tuy chưa đầy, nhưng đủ để cho thấy chế độ Cộng Sản Việt Nam từ thời Hồ Chí Minh cho đến nay chỉ là một thứ gia đình trị, tập hợp các đảng viên cao cấp bạo ngược, phân chia quyền lực và quyền lợi từ cha đến con, cả đến hàng họ xa gần và bè đảng đã đưa xã hội đến chỗ vô đạo, đất nước đến chỗ nghèo đói, và hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư như điều không tránh khỏi.

Con của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006 – )

Chúng tôi bắt đầu với người có nhiều quyền lực, gian xảo và tham nhũng nhất nước hiện nay là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Lý lịch của Nguyễn Tấn Dũng thật mù mờ. Trên trang mạng của Nguyễn Tấn Dũng ghi là sinh năm 1949 tại Cà Mau, nhưng ngôi nhà tự nguy nga của Dũng thì ở Rạch Giá. Ông Hoàng Dũng, một cán bộ Văn phòng Trung ương đảng đã làm việc với nhiều ủy viên cao cấp trong đảng, đã tiết lộ nhiều bí mật về đời tư của nhiều người lãnh đạo. Về Nguyễn Tấn Dũng, ông viết: «Theo cụ Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư, thì trong thời gian Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Liên khu ủy Khu IV từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng và cụ còn cho biết là Nguyễn Tấn Dũng còn có một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh.

Cũng trong tài liệu nầy, ông Hoàng Dũng tiết lộ là có gặp nhiều lần Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng) là em của Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Ông viết về Tư Thắng như sau: Điều tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài Loan hoạt động chui tại VN là First China Bank. Như vậy, có thể hiểu được đây chính là «sân sau» của Ba Dũng và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhắm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngã Đài Loan…(Hoàng Dũng 09/10/2006 Những bí ẩn về Nguyễn Tấn Dũng, trang mạng winc100.multiply.com/journal/ item/261/261)

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

MÚA RỒNG TRÊN MÂY ẢO



Nguyễn-Xuân Nghĩa
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Trận đấu trí và đấu lực Mỹ-Hoa



* Tập Cận Ba và trò hý lộng *


Trong tuần này, nguyên thủ của Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ có hai ngày xăn áo vỗ đùi nói chuyện thân tình tại một nơi có cái tên tiền định: Rancho Mirage. Trang trại ảo. Nhìn từ bên ngoài, chúng ta nghĩ sao?

Theo tiết lộ của viên chức có thẩm quyền – mà giấu tên, dĩ nhiên – Chủ tịch Tập Cận Bình đã yêu cầu tổ chức thượng đỉnh, tại địa điểm khá thân và vào thời điểm khá cận, để chứng tỏ tư thế của mình với đảng, nhà nước và thần dân ở nhà. Mãi đến năm 2002, khi hai nhiệm kỳ sắp dứt, Chủ tịch Giang Trạch Dân mới có kiểu hội kiến như vậy trong trang trại của Tổng thống George W. Bush. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thì chưa, cứ cà vạt cổ cồn cứng ngắc nói chuyện chính thức với Tổng thống Mỹ theo bài bản định trước, chứ không có phút giây thoải mái nói thật và nói hết....

Đấy là cách suy luận từ bên ngoài, của truyền thông Hoa Kỳ, đúng sai thì chưa ai rõ.

Từ giác độ văn hóa, ta có thể nghĩ đến cung cách Trung Hoa đầy chữ lễ dành cho vị quốc khách để bàn về thiên hạ sự, và phong thái Hoa Kỳ có chất cao bồi là nướng thịt ngoài vườn để nói về chuyện lợi hại.... Hãy trở về với nội dung thật của vở kịch chính trị.

Hoa Kỳ là nước dân chủ, đa nguyên và cởi mở, nên tiếp cận với mọi vấn đề trong tinh thần đó: không ai có độc quyền chân lý. Mọi người đều có thể tìm giải pháp cho bài toán của mình, căn cứ trên một số thông tin mà ai cũng biết là hạn chế chứ không toàn diện. Khi tiếp cận với Trung Quốc cũng thế, Hoa Kỳ có nhiều hướng ứng xử khác nhau.

Thứ nhất và thực tế là ứng xử về quyền lợi kinh tế, với những người thấy mối lợi trong giao dịch, nhiều người khác thì e sợ thiệt hại vì thể chế kinh tế chính trị của Trung Quốc. Cả hai thành phần này đều tác động vào dư luận – khách hàng và chính trường - với lý luận đầy vơi. Ly nước đã đầy một nửa vì Bắc Kinh đã cải cách và nền kinh tế hạng nhì thế giới trở thành một thị trường đáng kể với hơn một tỷ dân. Nhưng ly nước còn vơi một nửa vì Bắc Kinh cải cách nửa vời, chưa có nền kinh tế thị trường đích thực, còn giành quyền bảo vệ hệ thống kinh tế nhà nước và thường xuyên ăn cắp quyền sở hữu trí tuệ lẫn bí mật về kỹ thuật quốc phòng. Cả hai thành phần đều có tiền nuôi vẹt – các "chuyên gia" về Trung Quốc – để nói ra sự thật của mình.

Hướng ứng xử thứ nhì thuộc về chính quyền và các nhà ngoại giao là những người được phép nói dối cho tổ quốc. Bộ Ngoại giao phải tổng hợp quan điểm về quyền lợi của đất nước khi tiếp cận với Bắc Kinh.

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

"MÀY GIẢ VỜ LÀM VIỆC, TAO GIẢ VỜ TRẢ LƯƠNG"


Tháng 5 29, 2013
Tony Judt
Phan Trinh dịch

Bài liên quan:

Xa cộng sản, gần con người: Bể dâu ở Tây Âu
Xa cộng sản, gần con người: Đi dây ở Đông Âu
Đọc bể dâu ở Tây Âu và Đi dây ở Đông Âu:

https://docs.google.com/file/d/1aWGAJXj2qzKYibaKlqMI22vLKmtYr8iK3Q8HYOnRF6m8F2LLOmP4fMNdV7Lv/edit
___________
Giới thiệu của người dịch:
Đây là đoạn cuối Chương 18 cuốn Post War của Tony Judt. Sau khi bàn về trí thức Tây Âu và Đông Âu, tác giả nói về nền kinh tế bế tắc và vờ vịt tại Đông Âu, bối cảnh của những biến động chính trị và xã hội dẫn đến cách mạng 1989 lật đổ cộng sản.
Nếu nghịch lý là gốc của cái hài thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xem như một vở kịch khôi hài đen, dù đỏ ngầu. Trong những vở đỏ đen nhiều tập kia, Tony Judt nhắc đến hai quái tật chết người của chế độ, ở Đông Âu trước đây, và cũng không khó thấy ở cả Việt Nam lâu nay, có thể tóm tắt nôm na như sau:
1. Lỗ vẫn làm: Thay vì kinh tế định đoạt chính trị như người cộng sản vẫn nói, chính trị cộng sản lại xúi bậy kinh tế. Kinh tế không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng mà từ ý chí chủ quan của bề trên. Trên bảo sao dưới nghe vậy, làm khác là mất việc, phản biện thì phớt lờ, phản đối thì bỏ tù. Hậu quả là lỗ vẫn làm. Ở Việt Nam, những vụ như Boxit, Vinashin, rừng phòng hộ, điện hạt nhân, đường sắt cao tốc, 16 chữ… là những ví dụ của lỗ vẫn làm, càng làm càng lỗ, hoặc thấy lỗ mà/là cứ đâm đầu vào. Không chỉ lỗ tiền, còn lỗ cả mạng người, môi trường, lãnh thổ, cả sinh mạng Đảng.
2. Sai không sửa: Tất cả những thất bại, vờ vịt của nền kinh tế kia Đảng biết cả nhưng vẫn im lặng, như một nấm mồ. Đảng không dám phẫu thuật, chỉ dám dùng thuốc giảm đau tại chỗ. Thực ra, khi kinh tế đã đan xen vào chính trị thành một “khối thống nhất” thì đứt dây động rừng, sửa sẽ sụp. Học thuật thì nói như Tony Judt: Giữa hai cái xấu, Đảng chọn cái xấu ít hơn. Huỵch toẹt thì cũng có thể nói rằng: Đảng rất hiểu cố đấm ăn xôi là xấu, nhưng vẫn đỡ xấu hơn, đỡ đau hơn và khó chết hơn là thực tâm thay đổi. (Chẳng lạ, bao nhiêu kiến nghị, phản biện, góp ý của trí thức Đảng cứ giả vờ như không có. Hóa ra, những kiến nghị kia không đánh thức được Đảng mà đánh thức xã hội dân sự.) Nhưng, cũng như ung thư không chữa, Đảng đang sống ở giai đoạn cuối, Judt gọi là mượn thời gian để sống, được ngày nào hay ngày ấy, dân gian gọi là chờ chết.
___________________

Tiến là thoái
Đề tài mà các trí thức phản kháng ít bàn tới chính là kinh tế. Điều này cũng là một phản ứng thực tế. Kể từ thời Stalin thì tăng trưởng kinh tế, hay đúng hơn là tăng trưởng công nghiệp, vừa được xem như mục tiêu vừa được xem như thước đo mức thành công của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, như trình bày trong Chương 13 cuốn sách này, là ưu tiên hàng đầu của thế hệ trí thức cải cách thời kỳ đầu: nó phản ánh nỗi ám ảnh của chế độ cộng sản và một quan điểm, được cả người theo lẫn không theo chủ nghĩa Marx đồng tình, rằng mọi động thái chính trị chung quy cũng chỉ là vì kinh tế mà thôi. Vì vậy, có thể nói trong giai đoạn 1956-1968 lúc Đông Âu loay hoay tìm cách tự cải tổ, phản biện để cải cách kinh tế chính là hình thức đối lập tốt nhất có thể có, dù là đối lập trong vòng “lễ giáo”.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Sau Nick Vujicic, sẽ có gì ở Việt Nam?


Tác giả: Phạm Xuân Thanh

Có lẽ chúng ta cần có gì đó tốt hơn và không phải chờ lần sau Nick đến để thay đổi!

LTS: Tuy Nick Vujicic đã rời Việt Nam sau chuyến đi thăm ngắn ngày, nhưng "dư âm" về con người khuyết tật vĩ đại này, vẫn để lại trong lòng người Việt những cảm xúc rất khác nhau, những suy nghĩ về "thân phận" người không may mắn giữa cộng đồng. Mới đây Tuần Việt Nam nhận được bài viết của bạn đọc Phạm Xuân Thanh, cũng là một người không may mắn, đã can đảm đứng vững trên "đôi chân" của mình, một đôi chân mà tai nạn vô tình đã cướp đi của anh. Tuần Việt Nam xin đăng tải bài viết dưới đây.

Tinh thần Nick Vujicic

Nick Vujicic đã rời Việt Nam và để lại cho chúng ta cuộc tranh cãi về con số 36 tỷ, trong bối cảnh kinh tế quá xấu hiện nay thì một con số gần hai triệu đô la cũng đáng để chúng ta suy ngẫm. Có người còn hào hứng rằng "100 tỷ cũng không lãng phí...". Dưới góc độ là một người khuyết tật làm doanh nghiệp và tạo việc làm cho người đồng cảnh tôi xin chia sẻ về chuyện "đắt rẻ" ở đất nước này.

Một doanh nghiệp như Tôn Hoa Sen chẳng hạn, có lý do để bảo vệ quan điểm rằng "với một cú hích tinh thần" thì một số tiền như thế là nhỏ để mua. Một số nghệ sĩ tên tuổi, rồi cả một anh ca sĩ người Mỹ cũng chia sẻ như vậy. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều tiền để đến đình chùa làm lễ, ở đây, được chứng kiến một câu chuyện kỳ lạ mà không phải đi du lịch xa xôi thì nhiều người ủng hộ là lẽ thường tình.

Những "cú hích" như kiểu Tôn Hoa Sen là cần thiết vì các anh ấy tạo điều kiện cho Nick nói chuyện với các doanh nghiệp để nhận một "điểm tựa tinh thần" gắng gượng vượt qua khủng hoảng.

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

LÝ NHÃ KỲ VÀ NẠN PHÁ RỪNG..."RỪNG CHẮC PHẢI ĐỢI.."


May 27, 2013 By Alan Phan


Tuần rồi anh bạn Nick Vujicic đến Việt Nam đem theo một cơn lốc về truyền thông khá vĩ đại.

Ngoài chuyện được xe mô tô của công an hộ tống, tiếp rước như một nguyên thủ quốc gia, anh

chàng Nick còn là tin nóng hàng ngày trong suốt thời gian lưu trú, bao phủ bởi 700 tờ báo lề

phải, cả trăm blog lề trái và các đài TV, radio…Chắc chắn là ngôi sao anh đã sáng rực từ Saigon

đến Hà Nội, hơn cả các Hội Nghị Trung Ương hay các lễ hội truyền thống quốc gia.

Có lẽ vì đó anh cũng gây nên nhiều ganh tị. Tôi không biết gì về anh, chưa đọc sách của anh, nên

không có bình luận gì ngoài sự công nhận tài năng PR tuyệt đỉnh của anh. Tôi cũng không suy

nghĩ nhiều về việc nhà tài trợ bỏ ra gần 2 triệu đô la cho chương trình PR này. Đó là một công ty

tư nhân; họ muốn xài tiền cách nào cho mục đích kinh doanh nào thì xài, không gì để thắc mắc.

Nhưng đọc qua các thành quả của Nick, nhất là việc anh kiếm trung bình hơn 15 triệu đô la mỗi

năm trong 3 năm qua, thì anh đã xác nhận điều tôi lập đi lập lại với các bạn trẻ:

“Cơ bắp có thể kiếm tối đa 20 đô la mỗi giờ ở Mỹ; nhưng trí tuệ thì vô giới hạn”. Một người

khuyết tật không chân tay, lợi dụng điểm yếu của mình để chinh phục thế giới, kiếm tiền qua khả

năng PR sáng tạo…Nick là một thành công về tiếp thị đáng trân trọng và cấn phân tích để lĩnh

hội đầy đủ các bài học cho mọi nhà quản lý.

Một thiên tài khác về PR là cô Lý Nhã Kỳ. Tôi cũng không biết gì về cá nhân cô này nên cũng

không có bình luận gì ngoài những kỹ năng tôi quan sát qua các tít lớn trên mạng truyền thông.

Chuyện cô vào buồng lái của Việt Nam Airlines chụp hình với các bạn phi công cũng tạo nên

cơn sốt PR “khủng”. Một chuyên viên về truyền thông ước tính là sự kiện này phủ sóng đến hơn

8 triệu người và giá trị quảng cáo có thể lên đến 3 triệu đô la về hiệu quả. Wow.

Để các bạn dễ so sánh, tôi xin đem bài viết mới nhất của tôi “Global Witness và Nước Mắt Môi

Trường” đăng trên báo Saigon Tiếp Thị chúa nhật rồi. Theo ước tính, có khoảng 6 ngàn người

đọc bài này. Cho nên về mặt PR, so với cô Lý Nhã Kỳ, tôi thực sự là một cậu sinh viên đòi dạy

toán cho G/S Ngô Bảo Châu (không biết tôi có khả năng dậy toán cho cô Lý Kỳ không nhỉ, chắc

chắn là thú vị hơn GS Châu nhiều).

Có lẽ vấn đề nằm ở chỗ tôi quá nghiêm túc khi nói về sự mất mát hơn 100 tỷ USD vì nạn phá

rừng và hủy hoại buồng phổi của quốc gia, trong khi cô Lý Nhã Kỳ chỉ muốn…(thực tình không

ai biết cô muốn gì ngoài các món hàng hiệu hơn chục tỷ mỗi thứ…).

Trong một nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng quyết định sản phẩm hay dịch vụ mình muốn

mua. Theo đúng nhu cầu của họ về mọi chỉ tiêu, chúng ta sẽ có những khách hàng trung thành,

dù món hàng có thể độc hại hay kém chất lượng. Muốn biết rõ nhu cầu, phải làm nên một profile

tổng quát (chân dung và lý lịch) của những khách hàng trong tầm nhắm này. Sự đam mê các

bộ phim Hàn Quốc và Trung Quốc chiếu mỗi ngày trên TV cũng nói lên khá nhiều cá tính của

profile.

Nhìn qua những khách hàng của Nick Vujicic và Lý Nhã Kỳ, tôi chắc chắn là cá nhân mình, hay

những đề tài mình truyền bá, không có cửa cạnh tranh nào. Cho nên bỏ qua những ồn ào về nhân

quyền hay dân chủ, tôi thấy phần lớn khách hàng vẫn rất ưa thích những món hàng hiện đang bán

chạy và mọi thay đổi về sản phẩm hay sở thích có lẽ phải mất nhiều thập niên nữa.

Rừng chắc phải đợi.

Alan Phan

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Những bài học về viện trợ của phương Tây sau Việt Nam và Campuchia



http://www.eastasiaforum.org/2013/05/11/lessons-in-western-aid-after-vietnam-and-cambodia/



18/05/2013
Lê Duy chuyển ngữ, CTV Phía Trước

Adam Fforde, Victoria University – EAF

Đã trải qua cả một thế hệ rưỡi từ khi Việt Nam mở cửa cho phương Tây, và cũng khoảng một thế hệ kể từ khi Campuchia làm những điều tương tự.
Cả hai đất nước này đã thay đổi mạnh mẽ, với mức tăng trưởng kinh tế nhanh như vũ bảo và sự xuất hiện các giai cấp trung lưu đẳng cấp quốc tế. Tuy nhiên, họ vẫn còn ngập chìm trong tham nhũng, và không được đáng tin cậy như những đối tác tới từ phương Tây của họ cũng như những vấn đề chính trị nghiêm trọng vẫn còn tồn đọng cho dù họ đã nhận được nhiều chương trình hỗ trợ từ các nước phương Tây – tại sao lại như thế?



Điểm yếu cơ bản về cách thức viện trợ của phương Tây nằm ở cách họ thực hiện. Họ tin rằng họ có thể suy diễn dễ dàng từ các bước cam kết nguồn tài nguyên tới những kết quả có thể dự đoán đượcNhưng các số liệu đã chứng minh rằng cách thức tiếp cận này sai lầm một cách trầm trọng (xem Fforde, Coping With Facts-A Skeptic’s Guide to the Problem of Development, Kumarian Press, 2009). Một vấn đề nảy sinh dẫn đến phân chia khuynh hướng bè phái – nghĩa là các nhà tài trợ khác nhau có những niềm tin khác nhau, và do đó không có một nhân vật trung ương đưa ra quyết định cuối cùng cũng như nói lên bản chất của sự thật là gì. Bài học căn bản từ Campuchia là những người nhận viện trợ một cách khôn ngoan sẽ nhanh chóng nhận ra cách để “chia và trị”. Và một điều chắc chắn nữa là: những người nhận thì học bài học này nhanh hơn nhiều so với những người tài trợ.

Các nghiên cứu về tính hiệu quả trong các phương pháp viện trợ thường củng cố quan điểm của bất cứ ai trả tiền cho họ nhiều là đưa ra những nhận định một cách chính xác những gì đang xảy ra.

Một vấn đề cơ bản nằm ở “khả năng”, và điều này lại dính lứu tới sự hợp tác. Vì các nhà viện trợ bắt đầu cung cấp các nguồn tài nguyên (hỗ trợ kỹ thuật, tiền và nhiều thứ khác nữa), những thứ họ hi vọng sẽ nhanh chóng cải thiện kinh tế và xã hội, thì lúc đó dường như có một mối liên hệ giữa nguồn tài nguyên được cung cấp cùng với sự phát triển đạt được. Nhưng mối liên hệ này không mạnh. Các nhà viện trợ chi tiêu vội vã trong các giai đoạn đầu và liên tục tìm kiếm người để giải ngân vốn, bất cứ ai có khả năng đáp ứng được các yêu cầu như việc viết báo cáo, đề nghị và đánh giá thì đều có thể đạt tiêu chuẩn. Việc này bao gồm săn đuổi những tổ chức và cá nhân với những kỹ năng ngôn ngữ, kỹ thuật cũng với một vài “kỹ năng khác” có đủ khả năng tuân thủ các yêu cầu. Và rồi nguồn vốn có thể được giải ngân và nhà tài trợ có thể tạo ra các hoạt động họ cần để báo cáo về những thành công cho chính phủ của họ. Bởi vì số lượng người đáp ứng được yêu cầu của bên viện trợ (hay nói theo cách khác “có khả năng” để giải ngân) thoạt đầu khá ít nên quá trình này gây ra nhiều tranh cãi, giá yêu cầu tài trợ được nâng lên, các nhà giải vốn thường thất bại trong việc chọn đối tác – những người này thường phù hợp làm việc trong thời gian dài (nhưng họ lại cần tìm người để giải ngân trong thời gian ngắn). Phía nhận viện trợ nhận ra điều này một cách nhanh chóng, và sau một vài năm từ khi cuộc chơi được bắt đầu, những người được lựa chọn để giải ngân lúc đầu sẽ nắm quyền kiểm soát nguồn vốn đó trong một thời gian dài. Ngoài nạn tham nhũng này và quan hệ chính trị thân hữu, các nhà viên trợ phải đối mặt với những vấn đề mới đến từ các tầng lớp ưu tú mới trong giới chính trị. Các nhà viện trợ không sẵn sàng để tính toán các chương trình về thời hạn lâu dài. Những các giới tinh hoa tại đây thì có.

Sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu địa phương hội nhập vào thế giới cũng đồng thời ngăn chặn các nhà viện trợ không thể hợp tác với những người dân địa phương bình thường. Tại cả Việt Nam và Campuchia, phần đồng người dân vẫn con nghèo (mặc dù tốt hơn nhiều so với những gì họ đã phải trải qua trước đây), không có quyền chính trị và bị thống trị bởi chế độ tham nhũng với khuynh hướng đàn áp công dân. Giáo dục phổ cập thì còn ở chất lượng thấp. Những nhà viện trợ thường tiếp cận được với người dân thường qua điều tra thăm dò (thường là về “nghèo đói”), và sử dụng các phương pháp dễ dàng bị đánh lạc hướng theo hướng có lợi cho các nhà viện trợ và tầng lớp chính trị địa phương. Việc tiếp cận những mong mỏi của người dân bình thường vẫn còn khá giới hạn. Những nhà đi du lịch bụi, các nhà nhân chủng học và những người khác thường làm các nhân viên viện trợ bang hoàng với những gì họ báo cáo.

Các tổ chức phi chính phủ địa phương phụ thuộc quá lớn vào các hỗ trợ từ bên ngoài; điều này có thể mang đến cả hai mặt xấu hoặc tốt. Sự khác biệt giữa Việt Nam và Campuchia ở điểm này cực kỳ lớn. Tại Việt Nam, các quyết định được đưa ra vào năm những năm 1990 cho phép nguồn tài nguyên viện trợ đi thẳng tới sự quản lý bởi những bàn tay “an toàn” – các tổ chức được điều hành bởi tầng lớp thống trị địa phương. Trong khi những tổ chức này có vẻ như đứng về phía các nhóm thiệt thòi, thì thực tế họ không hề dám đi những bước đi mạo hiểm nhưng cần thiết để thực sự hoạt động trong xã hội dân sự. Và do đó, những tổ chức có thể thực sự hỗ trợ công nhân, nông dân và các nhóm dân tộc thiểu số đã không được hình thành. Ở Campuchia, các nhà viện trợ đặt những nguồn tài nguyên chính vào tay các tổ chức phi chính phủ địa phương, và những tổ chức này thực sự hoạt động năng nổ vào các vấn đề chính trị nóng như tranh chấp đất đai. Do đó, các quyết định được đưa ra sớm cần được xem xét lại, và cũng có thể là chúng không cần. Các nhà viện trợ không được tổ chức để suy nghĩ thấu đáo về mặt chính trị. Những các tầng lớp tinh hoa địa phương thì có.

Các nhà viện trợ có quyền có những mục đích chính trị, nhưng họ lại được tổ chức dựa trên nền tảng sai lầm trong khâu dự đoán, và cùng với những thiếu sót trong khâu quản lý hiệu quả và lâu dài. Chính điều này giải thích tại sao họ thất bại.

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

VỊNH BỨC DƯ ĐỒ RÁCH


Trần thị LaiHồng sưu tầm

Để nhớ môt thời thơ ấu từng chạy qua nhà thờ Ông Già Bến Ngự



Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939)

Ôn cố tri tân, đọc chuyện xưa nghĩ chuyện nay, dẫu đã ngót trăm năm, hoàn cảnh và tâm trạng có khác, xưa chống ngoại xâm, nay chống giặc ngay trong nước do cấp lãnh đạo cõng về … !



Trước hiểm họa đất nước bị xâm lăng, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con chắu lấy làm chơi (3)
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi. (4)

Các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác giả, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 – Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 2, đăng trên ĐPTB (Đông Phương Thời báo), số 635, năm 1927:

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
Ta bồi cho chúng chị em coi
Giận cho con chắu đà hư thế
Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ
Có hồ có giấy dễ mà chơi.
Bởi chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.

Như được chắp thêm cánh, đồng hành bay bổng cùng Tản Đà, các nhà nho, nhà văn có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại Bức Dư Đồ Rách… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 – Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 3, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 636, năm 1927:

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!
Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ
Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi
Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó
Non sông ai hỡi đợi chờ ai?
Còn núi còn sông còn ta đó
Có lúc ta bồi chúng bạn coi.

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 4, cũng đăng trên Đông Phương Thời Báo số 643, cùng năm 1927:

Có lúc ta bồi chúng bạn coi
Chị em nay hãy tạm tin lời
Dẫu cho tài có cao là thánh
Chưa dễ tay không vá nổi trời
Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn
Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi
Việc nhà chung cả ai ai đó
Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?

Trong số những bài họa, có hai bài của Cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.
I
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,
Ta bồi cho chúng chị em coi.
Giận cho con cái đà hư thế,
Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,
Có hồ, có giấy dễ như chơi,
Vì chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.
II
Hóa rách ra lành thế mới hay
Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,
Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,
Gan óc ghe phen trổ gió mây.
Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,
Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.
Người đà mới mới ta nên mới,
Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy.

Phan Bội Châu
1927

Dưới đây là bản tiếng Anh Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà, do Giáo sư Huỳnh Sanh Thông chuyển ngữ.

The Tattered Map
Stand there and have a look at that poor map.
Its streams and hills make sorry butts for jokes.
You know how long it took to draw the map?
Why is it now all tattered and torn up?
Our fathers purchased it, left it to us-
how dare their children make a toy of it?
Oh well, it’s no use blaming juveniles.
Let’s all do what we must and mend the map.
Huỳnh Sanh Thông

[From An Anthology of Vietnamese Poems, edited and translated by Huỳnh Sanh Thông, Yale University Press, 1996]



Bài họa Vịnh Bức Dư Đồ Rách, của Trần thị LaiHồng

Nhìn tấm dư đồ rách tả tơi
Non non nước nước ngắm nhìn coi
Cha ông xưa cố công gìn giữ
Con cháu nay hoài của bán chơi !
Ải Bắc xoẹt cắt đầu biên giới
Bờ Đông bò liếm chiếm ngàn khơi
Tổ quốc giang san nay sứt mẻ
Dư đồ một tấm tả tơi rồi !!!!!!!
Trần thị LaiHồng

Hoa bang,tháng 5, 2013,
để nhớ môt thời thơ ấu từng chạy qua nhà thờ Ông Già Bến Ngự

Chú thích :

1. Tản Đà tên thật là Nguyễn khắc Hiếu (1888-1939), người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn tây.Vì quê ông gần sông Đà và núi Tản Viên , nên lấy bút hiệu là Tản Đà.
2. Cụ Phan Bội Châu (Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 – mất ngày 29 tháng 10 năm 1940) là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du.

Cụ Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San, tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v…
Từng bôn ba khắp nước và qua TRung Quốc, Nhật bản, liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại để cùng họ chống Pháp. Ông chọn một hoàng thân nhà Nguyễn, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, làm lãnh tụ phong trào Cần Vương.

Có nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước(Việt Nam Quốc sử khảo (1909), Ngục Trung Thư, Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư,Việt Nam Vong Quốc Sử, Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927) …) Các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp. Bị Pháp bắt tại Hàng Châu, dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai. Về sau, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia. Theo Việt Nam Pháp Thuộc Sử, ông được giảm án vì phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà cầm quyền Pháp.

Từ năm 1926, ông bị đưa về sống ở Bến Ngự, Huế, cho đến khi mất tại Huế vào năm 1940. Lúc đó ông được gọi là Ông già Bến Ngự.
3. Giáo Sư Huỳnh Sanh Thông (1926-2008) gốc Hóc Môn, từng bị Pháp bắt vì chống chính quyền Pháp. Du học Hoa Kỳ, tốt nghiệp Đại học Ohio, giảng viên Việt ngữ Viện Ngoại vụ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Washington DC, và chuyển sang dạy Văn chưong việt Nam, Đại học Yale. Ông có về ViệtNam làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã và sau đó trở lại định cư tại Hoa Kỳ, dạy tại Đại học Yale , cư ngụ trong khuôn viên Yale cho đến khi qua đời.

Ông từng dịch nhiều tác phẩm văn chương Việt Nam sang Anh ngữ, trong đó có Truyện Kiều/ The Tale of Kieu của đại thi hào Nguyễn Du. GS. Huỳnh Sanh Thông cũng là tác giả của 2 cuốn sách do nhà xuất bản Yale Press ấn hành, là An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twenthieth Centuries (Tuyển tập thi văn Việt Nam: Thế kỷ 11 đến thế kỷ 20) và Flowers from Hell (Hoa địa ngục), tức tập thơ của Nguyễn Chí Thiện. Các tác phẩm này cũng do Đại học Yale xuất bản. Ngoài ra ông là người sáng lập bộ sách Lac-Viet và tạp chí Vietnam Forum (Diễn đàn Việt Nam). Tạp chí này ra được 16 số từ năm 1983 đến năm 1997. Riêng bộ sách Lac-Viet có nhiều bài biên khảo và dịch thuật các bản văn cổ kim như “The Song of a Soldier’s Wife” tức Chinh phụ ngâm và “The Quarrel of the Six Beasts” tức Lục súc tranh công.
Ông từng là Giám đốc dự án Ðông Nam Á của Đại Học Yale, và là sáng lập viên Diễn đàn Việt Nam và cơ sở xuất bản Lạc Việt. GS. Huỳnh Sanh Thông được giải thưởng the AAS Benda Prize năm 1981 và được học bổng MacArthur Fellowship năm 1987.

Giáo sư Huỳnh Sanh Thông còn là giám đốc Yale Southeast Asian Refugee Project (Dự án của Viện đại học Yale về người tỵ nạn Đông nam Á) từ năm 1981 đến 1990.

Ông từng nhận giải “Harry J. Benda Prize in Southeast Asia Studies” vào năm 1981 và “MacArthur Fellowship” vào năm 1987.



Bây chừ Rồng đã cụt chân
Bà con thôi chớ nói gần nói xa
Cũng vì cộng sản mà ra
Quái thai bán đứng đất Cha cho Tàu*
Sử ghi tận mãi ngàn sau
Chao ôi Mẹ Việt nát nhàu...lòng đau !.

*. Phạm Văn Đồng đại diện CS ký văn tự dâng đảo cho Tàu tặc
Bây chừ bọn nó bỏ tù người dân yêu Nước . Lịch sử lại trở lại
thời bị đô hộ bởi Tàu, Pháp.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ.



BLOG CỦA ALAN NGÀY CHÚA NHẬT 12 MAY 2013

Hôm qua, dù bị cảm và ho, tôi vẫn cố gắng đến Trường DH Tài Chánh Hải Quan để trò chuyện cùng các bạn sinh viên. Thu nạp xong năng lượng của tuổi trẻ, nghe nhìn những hăng say hy vọng, căn bệnh của tôi giảm đi 50% chỉ sau vài giờ. Đó cũng là câu trả lời của tôi cho một bạn sinh viên muốn tìm bí quyết để giữ ngọn lửa đam mê nồng cháy 24/7 trong tinh thần. Hãy tìm đến những môi trường cởi mở, đặt câu hỏi, tạo kiến thức, tìm giải pháp, bắt tay thực thi tích cực và chọn lựa những bạn bè thầy cô…muốn nâng đỡ khyến khích mình những khi yếu đuối.

Phải hiểu thật sâu thật nhiều về đề tài và về công việc muốn làm…đừng sợ tin xấu, đừng lười biếng, đừng ỷ lại và đừng bỏ cuộc. Và đừng “đổ thừa” cho định mệnh, cho thể chế, cho bạn bè…Tôi vẫn nghĩ là 70% thành công hay thất bại trong mọi dự định bắt nguồn tử nội tại của tinh thần mình.
Chiều về, tôi lại được tiếp một phóng viên của một tờ tuần báo kinh tế từ Mumbai, Ấn Độ. Tôi quen biết anh ta từ 5.6 năm trước ở Hong Kong vì anh chuyên về chủ đề kinh tế tài chánh của Trung Quốc. Kỳ này, anh lại muốn phỏng vấn tôi cho một bài viết dài về kinh tế Việt Nam, cùng các triển vọng kinh doanh ở đây.
Buổi nói chuyện kéo dài hơn 6 tiếng, kể cả bữa ăn tối cạnh Hồ Bán Nguyệt. Tôi không biết anh sẽ viết những gì, nhưng chắc chắn là thú vị vì sự trao đổi rất thẳng thắn, nhất là những đề tài kinh tế chen lẫn mầu sắc chính trị. Tôi cũng không chắc là sẽ đăng lại được nguyên bài phỏng vấn ở web site này khi anh xuất bản, vì những phức tạp về pháp lý mà tôi không được phép liên quan.




Tuy nhiên, tôi xin “preview” nơi đây vài câu đặc biệt:
Q: Ông dự đoán thế nào về tình hình kinh tế của Việt Nam trong 7 tháng còn lại của 2013 và 2014?
A: Hơn 1 năm qua, tôi không còn dự đoán về kinh tế Việt Nam vì 3 lý do:
- Những số liệu thống kê chính thức, không chính thức cũng như những con số do các nhóm lơi ích tung ra đều rất mâu thuẫn và khó kiểm chứng. Rác đầu vào, rác đầu ra.
- Tôi cho rằng nền kinh tế ngầm của Việt Nam chiếm một tỷ lệ lớn hơn 30% của GDP. Do đó, khi nền kinh tế tốt, con số tăng trưởng thực sự có thể tốt hơn số liệu chánh phủ đưa ra. Nhưng khi kinh tế suy thoái, tình hình có thể tệ hơn mọi ước tính;
- Dù có liên quan nhiều đến thể chế chính trị, các nhà điều hành guồng máy kinh tế cố gắng giữ độc lập và thường phải chú tâm đến mục tiêu tối hậu của chính sách là gia tăng “thu nhập” của người dân. Gần đây, nền kinh tế Việt Nam càng ngày càng bị “chính trị hóa” và lợi ích chung của quốc gia đang bị hy sinh để phục vụ cho lợi ích của cá nhân và phe nhóm.
Giữ im lặng là cách duy nhất với một “người khách” như tôi.
Q: Những vấn đề lớn mà kinh tế Việt Nam đang phải khẩn cấp đối phó là nợ xấu ngân hàng, bong bóng BDS, nợ và thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước. Ông nghĩ chánh phủ có thể giải quyết các vấn đề này trước 2015?
A: Câu trả lời là KHÔNG.
Q: Nếu để suy thoái kéo dài, có nguy cơ nào sẽ khiến cả hệ thống tài chánh kinh tế sụp đổ?
A: Câu trả lời cũng là KHÔNG.
Q: Ông có thể biện giải thêm về lý do?
………
Cho tôi dừng ở đây và nếu có hiếu kỳ để đọc tiếp phần còn lại, xin chờ đến 3 June 2013 là ngày mà anh phóng viên nghĩ là anh ta sẽ xuất bản bài phỏng vấn.
Alan Phan

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX: PHẢN XẠ PHÊ BÌNH


Thụy Khuê


Phê bình là một trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống, là một phản xạ trước mỗi lựa chọn, mỗi hành động. Xuất phát từ ý thức bản thân: khi nghe một lời nói, một bản tin, một bài diễn văn, xem một cuốn phim, đọc một cuốn sách… phản xạ phê bình luôn luôn hiện diện, “nó” âm thầm “làm việc” trong đầu, chỉ cho ta biết điều này nghe được, điều kia ngụy biện, đoạn văn này dí dỏm, bức tranh này xấu, bản nhạc kia hay, v.v…
Mặc nhiên, ý thức phê bình tiềm ẩn trong óc, nếu muốn lộ diện bằng lời nói hay trên văn bản, “nó” phải “có gan” vượt qua thử thách từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội.

Ở phương Tây, sinh hoạt tri thức này sớm được vun xới trong gia đình: Con cái có thể tự do phát biểu trong bữa ăn, đưa ra những nhận xét “độc đáo” để phê bình cha mẹ, mà ít khả năng bị mắng, bị đánh. Do không bị ảnh hưởng nho giáo và được sống dưới chế độ dân chủ từ hơn một thế kỷ, nguời Tây phương có ý thức phê bình cao. Ý thức ấy, chẳng những không bị tiêu diệt từ trứng nước, mà còn có điều kiện phát triển trong toàn bộ sinh hoạt sống và suy nghĩ của con người từ gia đình đến xã hội.
Tại phương Đông, quyền huynh, thế phụ là trật tự kỷ cương, vì vậy, phê bình không những thiếu điều kiện phát triển mà còn bị đàn áp ngay từ đầu: Con cái chỉ có quyền “nghe lời” cha mẹ, chứ không được quyền “phát biểu”. Quyền đối thoại với cha mẹ, cho đến nay hầu như vẫn chỉ ở mức độ tối thiểu, ngay cả trong những gia đình rất Âu hoá, hoặc đang sống ở ngoại quốc. Truyền thống này làm nhụt chí con người: Rụt rè, e ngại, không dám nói trước công chúng trở thành quán tính, đặc sản của người Á đông. Đó là hậu quả của nền giáo dục ảnh hưởng đạo nho trong nhiều thế kỷ.

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

TỪ DÃ NGOẠI NHÂN QUYỀN...

... đến "Chọn đường" của nhà văn Phạm Thị Hoài và "Khi đảng cộng sản tự giải thể" của nhà bình luận Ngô Nhân Dụng

Submitted by Trưởng Biên Tập on Wed, 05/08/2013 - 17:20

Bình Minh



LTS Thông Luận: Trong bài này tác già Bình Minh đã nêu ra những giả thuyết dựa vào một số sự kiện được lấy làm cơ sở. Bài viết này là quan điểm riêng của tác giả. Thông Luận đăng dưới đây theo lời đề nghị của tác giả và vì sự chừng mực của lý luận nhưng đồng thời cũng xin lưu ý độc giả rằng một giả thuyết dù có cơ sở đến đâu cũng vẫn chỉ là một giả thuyết.

Tặng gia đình LHT

Buổi Dã Ngoại Nhân Quyền được tổ chức vào ngày 05/05/2013 đã rất thành công, được giới trẻ ủng hộ mạnh mẽ và tham gia đông đảo. Mặc dầu có những trấn áp bắt bớ trở ngại từ lưc lượng công an chìm nổi đang thi hành mệnh lệnh, nhưng những đe dọa kia vẫn không dập tắt được nỗi háo hức tham gia từ các tham dự viên và nói chung buổi sinh hoạt ngoài trời này vẫn được diễn ra theo dự định.

Tài liệu chính cho buổi dã ngoại này là cuốn sách nhỏ "Câu Chuyện Về Quyền Con Người" do Phong Trào Con Đường Việt Nam phát hành. Cuốn sách in rất công phu, trình bày tao nhã bắt mắt chứa đựng nội dung về những quyền căn bản của con người được giải thích đơn giản dễ hiểu. Đây là lời giới thiệu về cuốn sách trên trang nhà của Con Đường Việt Nam :

"Xin chân thành cảm ơn ông Lê Thành Ân - tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh, các mạnh thường quân, các nhà tài trợ đã giúp cho Phong trào Con Đường Việt Namcó kinh phí thực hiện cuốn sách ; cảm ơn bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi và nhà in Viet Nam Printing tại Hoa Kỳ đã phụ trách phần ấn loát và phát hành cuốn sách.

Nếu bạn cho nhu cầu nhận sách hãy liên hệ với chúng tôi qua email lienhe@conduongvietnam.org, chúng tôi sẽ sắp xếp gửi sách đến cho bạn. Mong bạn hãy tham gia góp sức, hãy là một sứ giả “Quyền con người” - giúp cho người khác hiểu về các quyền của mỗi người. Bạn có thể nhận sách để tặng cho bạn bè, người thân hoặc có thể download các file nội dung của cuốn sách để in ấn và sử dụng tùy ý của mình".

Tưởng cũng nên nhắc lại Phong Trào Con Đường Việt Nam là một phong trào được ra đời trong một bối cảnh chính trị rất phức tạp, do ông Lê Thăng Long (vừa ra tù 10 ngày) đại diện. Theo nhận định của những người đã có kinh nghiệm sống với cộng sản, sự công khai hoạt động của Phong Trào Con Đường Việt Nam vào năm 2012 như một đáp số cứu nguy cho bài toán "đa đảng" hóc búa mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải trình vào thời điểm mà uy tín của độc đảng cộng sản Việt Nam hết phương cứu chữa và phong trào đòi hỏi xé bỏ Điều 4 Hiến pháp lên cao điểm, đã tạo ra nhiều nghi vấn cho tất cả mọi người.

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH


Nguyễn-Xuân Nghĩa

....Tháng Tư vừa qua, người Việt nơi nơi đều nhớ đến biến cố 1.9.7.5 và ngậm ngùi hoặc hồ hởi về cái lẽ thắng bại oan uổng. Kẻ thắng hay người bại đều không đáng. Một trong nhiều lý do chứ không duy nhất lại là đối sách của Hoa Kỳ. Vào hay ra đều vì các động lực bất ngờ - và thay đổi.

Bài học ở đây là... không nên chống Mỹ.

Là siêu cường ở xa, Hoa Kỳ không có chủ đích xâm lược hoặc chiếm đóng Việt Nam theo lý luận có dụng ý kiểu Lenin hay Mao. Hoa Kỳ chỉ can thiệp và đổ quân vì tai nạn nội bộ của chính trường Mỹ, rồi khi đã vào thì sớm nghĩ đến ngày ra! Vì vậy, phục Mỹ hoặc phó thác sinh mệnh quốc gia cho chính trường Hoa Kỳ cũng là điều dại dột. Hay hơn cả có lẽ là phát huy những giá trị tinh thần đã làm nên sức mạnh của Hoa Kỳ cho sự thịnh vượng của chính mình.Nhưng cực kỳ thận trọng để không thành quân cờ trên bàn cờ của thiên hạ - rồi lại trông chờ vào việc nước Mỹ "chuyển trục" về Đông Á.

Quá trễ rồi chăng? //




"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Chẳng nên chống Mỹ mà cũng đừng vội phục Mỹ



* Sự nhất quán huê dạng và vô lường *


Thứ Ba mùng bảy này, khi hội kiến Tổng thống Hoa Kỳ, hiển nhiên Tổng thống Nam Hàn là bà Phác Cận Huệ đã nhớ đến một quy luật về đối sách của nước Mỹ: thêm bạn bớt thù. Với hậu quà là bạn thù gì đều thấy ngại.... Ngẫu nhiên lý thú, ngày này cũng là kỷ niệm trận Điện Biên Phủ năm 1954 của "phe chiến thắng"!


Hoa Kỳ có một quy luật bất thành văn về đối ngoại. Bất thành văn vì chẳng ghi trong Hiến pháp hay các pho sách hàn lâm của nhiều đời về chiến lược an ninh.

Đó là sau khi bảo vệ được sự vẹn toàn của một lãnh thổ phì nhiêu, vuông vức mênh mông, rồi kiểm soát được hai đại dương ở hai hướng Đông Tây, ai lên lãnh đạo cũng đều trước sau đảm bảo là không cường quốc nào trên địa cầu có thể thách đố hay uy hiếp quyền lợi của nước Mỹ. Muốn vậy, Hoa Kỳ phải có sức mạnh quân sự khả dĩ can thiệp được ở mọi nơi. Mà đó chỉ là phần tiêu cực. Phần tích cực là chánh sách kết ước với đủ loại đồng minh bằng kinh tế, ngoại giao và quân sự để bớt hao tốn công sức.

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

MẠN ĐÀM VĂN CHƯƠNG VỚI DƯƠNG NHƯ NGUYỆN

MẠN ĐÀM VĂN CHƯƠNG VỚI DƯƠNG NHƯ NGUYỆN
Phần Hai

ĐỐI CHIẾU VĂN CHƯƠNG TRONG NƯỚC VỚI HẢI NGOẠI VÀ TIÊU CHUẨN PHÊ BÌNH SÁCH:

***
LỊCH SỬ, SỰ THẬT HAY TIỂU THUYẾT?
“SÔNG HƯƠNG, DỊ HƯƠNG VÀ BÓNG ĐÈ”




Dương Như Nguyện:
• Sản phẩm trung học của VNCH; giải thưởng văn chương phụ nữ VNCH 1975.
• Thành danh ở Mỹ;
• Thập niên 79-80 (lứa tuổi đôi mươi): học báo chí.
• Thập niên 1990-2000 (lứa tuổi 40-50): Xuất bản Mùi Hương Quế; Daughters of the River Huong; Mimi and her Mirror; Postcard from Nam; giải thưởng International Book Awards, loại tiểu thuyết đa văn hóa (Los Angeles).



Đỗ Hoàng Diệu:
• Sản phẩm của XHCN;
• Thành danh ở VN;
• Thập niên 2000 (lứa tuổi đôi mươi):  Bóng Đè không được VN đưa cho giải thưởng văn chương nào cả.



Sương Nguyệt Minh, Quân Đội Nhân dân, VNCHXHCN, viết Dị Hương
Được Hội Nhà Văn VN trao tặng giải thưởng văn chương toàn quốc năm 2010.



Vua Gia Long: Thống nhất sơn hà –
Thế Tổ Cao Hoàng Đế: Quân vương hay ác quỷ của Dị Hương ???


TÓM TẮT PHẦN 1:

Trong Phần 1 của cuộc phỏng vấn thực hiện bởi Quê Hương (QH), Dương Như Nguyện (DNN) nói về phân tích văn chương và phân loại tiểu thuyết. Trả lời câu hỏi của QH về tập truyện Mùi Hương Quế, bà đề cập đến Hồ Xuân Hương, Anais Nin, và Phạm Thị Hoài.

TÓM TẮT PHẦN 2 DƯỚI ĐÂY:

Người đọc tiếng Việt đã xôn xao về một tác phẩm (không phải là tác phẩm văn chương)
đã bị từ chối không cho xuất bản ở VN, nhưng lại được tung ra thị trường ở hải ngoại, gây nhiều bàn cãi trong dư luận về giá trị lịch sử: đó là cuốn “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức. Nhân dịp này, QH tiếp tục đưa ra một đối chiếu khác, qua Phần Hai cuộc mạn đàm văn chương với Giáo Sư Dương Như Nguyện. Tuy trọng tâm cuộc mạn đàm là thế giới của văn chương sáng tạo và nghệ thuật tiểu thuyết, DNN đã nhắc đến và nêu kết luận về tiêu chuẩn chung cho tất cả các sách bất kỳ loại nào. Bà gọi tiêu chuẩn đó là “cái khuôn vuông tròn” để đo lường bất cứ cuốn sách nào “trong công việc đi tìm và phô bày sự thật,” cũng như “trách nhiệm của ngòi bút trước độc giả và lịch sử.”
Đầu thập niên 2000, Giáo Sư DNN đã nghiên cứu về tiêu chuẩn phân tích và phê bình văn chương sáng tạo (thuộc về chương trình “post J.D.” của Bà tại đại học Harvard). Năm 1978, khi cộng đồng người Việt ở Mỹ con rất phôi thai, Bà tốt nghiệp báo chí hạng Tối Ưu từ đại học Nam Illinois, nơi giảng dạy của cố giáo sư ngữ học VN, Tiến Sĩ Nguyễn Đình Hòa. Bà phụ giảng cho giáo sư Hòa một niên khoá năm bà chỉ mới 19 tuổi. Trong Phần Hai của cuộc mạn đàm với Quê Hương, đăng tải dưới đây, Bà nói về tiêu chuẩn phê bình qua cách phân loại sách, đồng thời đối chiếu văn chương sáng tạo trong và ngoài nước qua dạng tiểu thuyết lịch sử.
Bà so sánh “mùi hương” và “bóng…” bằng cách nói đến tác phẩm Dị Hương và Bóng Đè, đã xuất bản trong nước.

TRÍCH: “Giá trị văn chương sáng tạo phải tuỳ thuộc vào mục đích, ngụ ý , biểu tượng, chủ trương và chiều sâu tư tưởng của tác giả, cũng như cái đẹp của tác phẩm về phương diện mỹ thuật. Công cuộc phẩm định giá trị ấy là chỗ đứng cao quý, lương tâm, đạo đức và mỹ thuật tính của nhà phê bình. Theo tiêu chuẩn của Roland Barthes, thì nhà phê bình cũng là nhà sáng tạo. Đạo đức của cây viết đặt nặng trên cả hai: nhà văn sáng tạo và nhà phê bình văn chương, hai thế đứng khác nhau, cùng chung một sứ mạng. Theo tôi, đó là sứ mạng đem cái đẹp và nhân bản tính vào công cuộc đi tìm sự thật của nhân loại: đi tìm lòng cao thượng ở chốn bùn lầy, đi tìm sự hàn gắn cho tất cả mọi đổ vỡ, đi tìm hy vọng cho mọi thảm kịch, rồi gói ghém tất cả vào nghệ thuật cô đọng của ngôn ngữ, diễn tả qua lời kể truyện. Như thế, nhân vật trở thành nhân chứng. Tôi gọi việc gói ghém này là “cái khuôn vuông tròn và tính chất trọn vẹn của một tiểu thuyết văn chương!”
“…Còn những tác phẩm nghiên cứu hay tường thuật, theo dạng “phi tiểu thuyết” (non-fiction), thì dĩ nhiên độc giả và nhà phê bình không cần đi vào thế giới sáng tạo của văn chương. Tuy thế, tác giả cũng vẫn phải hoàn tất “cái khuôn vuông tròn” ấy, trong việc đi tìm và phô bày sự thật. Đó là trách nhiệm chung của ngòi bút trước độc giả và lịch sử!”



Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

THE FALL OF SAIGON




THÂN TẶNG TÁC GIẢ CỦA BÊN THẮNG CUỘC




April 28, 2013 By Alan Phan

ALAN PHAN

(Thân tặng tác giả của Bên Thắng Cuộc…)

Ánh sáng đầu ngày còn yếu ớt trên biển vắng lạnh và im sóng. Những con chim hải âu chưa thức giấc, chỉ một vài con dã tràng lăng xăng trên bãi cát vàng. Tôi và những con dã tràng: luôn luôn bận rộn suốt 38 năm qua và trước đó; nhưng thiên nhiên và tháng ngày tiếp nối theo nhau, không quan tâm gì đến những hạt cát chúng tôi xây đắp.

Lướt qua một bài viết trên BBC, giật mình vì lời tuyên bố của ngài Nguyễn Đình Tấn, giám đốc Học Viện Chính Trị Xã Hội của Hà Nội …rằng đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ lãnh đạo xứ này trong nhiều thập kỷ sắp đến vì không có đảng đối lập. Hơn nữa, sau 68 năm từ ngày chiếm chánh quyền vào 1945, đảng đã thu nạp được 4-5 triệu thành viên, cùng chục triệu thành đoàn, cộng với (?) thân nhân gia đình. Quan trọng hơn hết, đảng đang kiểm soát toàn bộ máy công an và quân đội. Phần lớn các nhà phân tích chính trị trong và ngoài nước đồng ý với nhận định này.

38 năm nữa…Wow. Lúc này, chắc chắn là mộ của tôi đã xanh cỏ và hồn của tôi chắc đang phiêu lãng qua những thế giới không còn nghịch lý. Những đứa con trai tôi chắc đã về hưu, không biết quỹ An Sinh Xã Hội của Mỹ có còn tiền hay đã khánh tận? Tích cực hơn, có thể chúng nó đang ở mặt trăng, tạo lập một tổ ấm mới cho gia đình và nhờ những phát minh sinh hóa học, có thể giúp chúng làm ăn vui chơi và sống đến 200 tuổi.

Thế giới không biết biến đổi ra sao 38 năm nữa? Trung Quốc có thực hiện được mộng vương bá của giòng giống Hán hay vẫn chỉ nhận được triều cống của vài láng giềng hữu hảo? Ông Kim Ủn Ỉn của Bắc Triều Tiên vẫn còn bắt dân ăn cỏ hay đã theo cha về chầu Mác Lê? Âu Châu có lẽ đã tan vỡ và đồng mark của Đức là ngoại tệ hiếm quý hơn cả đồng franc của Thụy Sĩ? Hậu thân của KGB Nga có kiểm soát được các phe nhóm xã hội đen trên thế giới sau cuộc chạm trán với Tam Hoàng của Tàu?

Quay lại chính trị Việt Nam, theo như ngài Tấn, 14 “đỉnh cao” vẫn phán định mọi hướng đi cho dân tộc theo sát tư tưởng Mao Trạch Đông/Hồ Chí Minh (Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao, thơ Tố Hữu). Năm 2051 này, chắc đảng đã tự phê “quyết liệt” và đang hỏi ý kiến dân về hiến pháp mới?

Về kinh tế, thu nhập của người dân chúng ta trong 2050 vừa bắt kịp con số của Thái Lan năm 2012. Không có gì để hãnh diện, nhưng ít nhất, một tầng lớp trung lưu vừa xuất hiện và Việt Nam vẫn xếp hàng đầu về chỉ số hạnh phúc. Các doanh nghiệp nhà nước đã phát triển mạnh và hiện chiếm 80% nguồn lực tài chánh (dù chỉ đóng góp 40% vào GDP của quốc gia). 60% tài sản vẫn nằm trong tay 5% dân số. Năm 2051, để kỷ niệm ngày 30/4, các lãnh đạo đã tề tựu để khánh thánh hệ thống xe điện ngầm đầu tiên nối trung tâm Saigon với Suối Tiên và các tỉnh lân cận. Nợ công đã lên đến 300% GDP, nhưng đây là vấn đề của IMF và ASEAN. Cà phê, quán nhậu và tiệm massage vẫn dẫn đầu trong các ngành kỹ nghệ trọng yếu.

Về văn hóa xã hội, ước muốn tuyệt nhất của thiếu nữ Việt là lấy chồng Hàn Quốc hay Trung Quốc; tham vọng lớn nhất của trai Việt là làm nhân viên Hải Quan hay Cảnh Sát Giao Thông. Bia rượu thuốc lá và điện thoại xịn vẫn là những thứ phải có của đại đa số . Trong khi đó, ô nhiễm, trộm cướp và vào bệnh viện…là ba mối lo hàng đầu. Giá BDS vẫn bằng 50 lần thu nhập trung bình của dân, nên đa số dân thành thị vẫn được ở trong hẽm với những căn nhà hộp quẹt trong các “khu phố văn hóa”. Nhưng vài khu biệt lập kiểu Rublevka ở Moscow với giá tối thiểu 10 triệu đô la một biệt thự bán chạy như tôm tươi (các trẻ em mới lớn thời này chắc không biết chữ “tôm tươi” hay bất cứ thứ gì tươi, vì các cháu đã quen với thực phẩm pha chế từ Trung Quốc).

Ở một góc nhìn tích cực khác, chúng ta giờ có đến hơn 1 triệu Tiến Sĩ (nhiều hơn cả Mỹ), vài chục ngàn chiếc siêu xe và vài trăm ngàn người mẫu/ca sĩ/diễn viên. Năm 2051 cũng đánh dấu một móc quan trọng cho dân trí: chánh phủ đã dẹp tan các blog lề trái trên mạng và người dân không còn bị cám dỗ bởi các thế lực thù địch. Tờ báo Nhân Dân trở thành nhật báo/tuần báo duy nhất tại Việt nam. Nhân dịp lễ, dân chúng vẫn được VTV cho xem lại hai phim truyền kỳ của nhân loại, “Chiến thắng Điện Biên” và “Chiến thắng Mỹ Ngụy”.

Nhìn về tương lai theo kịch bản của ngài Tấn, tôi thấy yên tâm về sự ổn định của quê hương. Giữa những biến đổi quay cuồng đến chóng mặt của thế giới, những người Việt tha hương có thể tìm thấy ở Việt Nam những hình ảnh tuyệt vời của 150 năm về trước. Cây đa vẫn cao ngất từng xanh, các chú bé mục đồng vẫn chạy theo đàn bò và các nhà làm phim vẫn dùng Việt Nam làm bối cảnh cho lịch sử thế kỷ 19.

Những người trăm năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ? (Thơ Nguyễn Đình Liên)

Quên, khắp nước, khu phố nào cũng có một đền thờ để toàn dân “lên đồng”, “sống chung hòa bình” với tổ tiên.

Alan Phan

30/4/2013

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Nền kinh tế chung Đông Nam Á vào năm 2015: Niềm hy vọng mong manh


25/04/2013

Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Martin Vaughan, Wall Street Journal

Bandar Seri Begawan, BRUNEI – Việc Đông Nam Á thúc đẩy để tạo ra một nền thị trường chung duy nhất tại khu vực này vào năm 2015 đã bị sa lầy bởi những áp lực chính trị nội địa tại nền kinh tế lớn nhất của ASEAN và các sáng kiến thương mại cạnh tranh về năng lượng cũng như sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách.
Các nhà lãnh đạo của Hiệp hội 10 thành viên các nước Đông Nam Á (ASEAN) tụ tập tại đây hôm thứ Tư, các nhà phân tích nói rằng mục tiêu của họ trong việc loại bỏ các rào cản tự do buôn bán hàng hóa, dịch vụ và công nhân, đã bị đình trệ. Trong khi đó, mục tiêu này chỉ còn 18 tháng nữa để hoàn tất.
Các cuộc họp tại Brunei cũng sẽ tìm cách giảm bớt căng thẳng đối với những tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông. Brunei, nước hiện đang nắm giữ chức chủ tịch luân phiên của ASEAN, hy vọng sẽ đưa ra được một thỏa thuận trong năm nay về quy tắc ứng xử để điều chỉnh các hoạt động trong các khu vực tranh chấp.
Theo một dự thảo tuyên bố lưu hành của các quan chức trước hội nghị thượng đỉnh và được xem bởi The Wall Street Journal, các lãnh đạo của các quốc gia Đông Nam Á hứa sẽ giải quyết tranh chấp với Trung Quốc mà “không mang lại các mối đe dọa khác hoặc sử dụng vũ lực”.

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Cộng Sản Việt Nam qua Văn Thơ Phản Kháng và Châm Biếm


Lâm Văn Bé Sao lục và chú thích

Sau 38 năm cai trị bằng độc tài và thối nát, đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến đất nước thành một mảnh đất tang thương, một xã hội băng hoại. Ngoài những phản kháng tích cực, người dân còn dùng những câu vè, câu ca dao, câu thơ để mô tả nỗi thống khổ, biểu lộ sự oán hờn và khinh bỉ đối với chế độ. Trong lịch sử, chưa bao giờ có loại văn chương bình dân châm biếm, nhục mạ chế độ cầm quyền một cách nặng nề như dưới thờiCộng Sản Việt Nam.
Để trình bày phần nào diện mạo của xã hội VN và phản ứng của người dân, chúng tôi sao lục một số câu vè, câu ca dao, câu thơ đã và đang lưu hành trong dân gian với những chú thích cần thiết, sắp xếp theo mẫu tự của tiểu đề, và theo dòng diễn tiến của các biến cố để độc giả cùng chia sẻ nỗi đau của dân tộc và niềm hi vọng sớm thoát khỏi ách thống trị của bạo quyền CS. Bởi lẽ lối văn chương truyền khẩu nầy đa dạng và có nhiều dị bản, độc giả có thể tìm thấy những văn bản khác, nhiều khi có ý nghĩa và thú vị hơn.

30 tháng tư 1975 : Cộng Sản chiếm Saigon

1. Khi những chiếc xe tăng đầu tiên của CS tràn vào Saigon, dân chúng hoảng hốt tìm mọi cách để trốn chạy
Chạy, chạy
Tự do, độc lập nhất trên đời,
Thiên hạ sao mà chạy chết thôi!
Mới thấy bóng cờ sờn tóc gáy,
Vừa nhìn ảnh bác toát mồ hôi.

2. Sau 30 tháng tư, các cán ngố lần lượt từ hầm hố chui ra, từ miền Bắc tràn vào Saigon để chiếm đóng nhà cửa của người dân, áp dụng ngay chính sách vơ vét tài sản của miền Nam. Họ ngơ ngác trước những tiến bộ kỹ thuật chưa từng thấy mà từ bao năm họ sống trong gọng kềm của tuyên truyền láo khoét là miền Nam nghèo đói lạc hậu. Họ chưa từng thấy cái tháng máy, nuôi heo trên cao ốc, ngồi chồm hổm trên xe hơi như người Mường người Mán vào thành phố..
Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta

3.
Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà mặt tiền
Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà thật to
Tiến về Sài Gòn, giải phóng đời quan

4. Giấc mơ của người cán bộ miền Bắc khi vào Nam sau 1975 là đem được về Bắc ba bảo vật là chiếc xe đạp, cái đồng hồ và cái radio (đạp, đồng, đài :3Đ).
Thiệu-Kỳ hai đứa đi đâu
Mà dinh Độc Lập âu sầu thế kia
Thiệu Kỳ đã tếch từ khuya
Để cho nón cối nó vào ở thay
Dép râu trong đó phơi đầy
Ngoài nầy sách quý ta bày bán «son»
Quê hương tím ngắt hoàng hôn
Bữa lưng bữa vực thêm cồn lòng ta

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

NHỮNG NGƯỜI MỸ SAU CÙNG RÚT RA KHỎI VIỆT NAM





23/04/2013  
Bob Drury & Tom Clavin
Ngô Bắc
dịch và phụ chú – Trích từ Gió-O



 Nguồn: Bob Drury & Tom Clavin, Last Men Out, The True Story of America’s Heroic Final Hours in Vietnam, Free Press: New York, London, Toronto, Sydney, 2011, chapter Epilogue, các trang 251-262; Postscript, các trang 263-271.. 


 Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, 1975


Khi mọi việc đã xong xuôi, tôi không chắc là liệu tôi sẽ được một phần thưởng hay một cú đá đít thật mạnh. — Thiếu Tá Jim Kean, Thủy Quân Lục chiến Hoa Kỳ

Hồi kết cuộc trên Chiến hạm USS Okinawa – 08:45 sáng 30 tháng Tư năm 1975

Bản thân Jim Kean lấy làm ngạc nhiên.  Ông đã không nghĩ rằng mình còn đủ năng lực để phá lên cười.  Song nơi đây ông đang cười toa toét như một con ma trơi khi ông đứng trên sàn con tàu tấn công thủy lục USS Okinawa.  Họ đã không thể vươn tới chiếc USS Blue Ridge, nơi mà Toán Swift 22 được chờ đợi đáp xuống – chiếc soái hạm của Đoàn Đặc Nhiệm 76 thì quá xa ngoài khơi và chiếc trực thăng đã không còn đủ nhiên liệu.  Và giờ đây Kean ngắm nhìn với một cái cười toét miệng khi mười lính bảo vệ an ninh Thủy Quân Lục Chiến quần áo tả tơi của ông bước ra khỏi chiếc trực thăng, lần lượt từng người lính, để rồi bị tước vũ khí bởi một đội Thủy Quân Lục Chiến Của Hạm Đội.

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

CHIÊU HỒI NGÔN NGỮ




Tâm Thanh
April 20, 2013


Người tỵ nạn ra đi không mang theo hành lý nào ngoài chút di sản tinh thần, trong đó có ngôn ngữ. Trong gia đình, ta vẫn nói tiếng Việt, suy nghĩ như người Việt, và vì lý do nọ lý do kia, vẫn tiếp xúc với tiếng Việt nơi quê cũ. Người yêu tiếng Việt và để ý một chút các hiện tượng ngôn ngữ, sẽ đau lòng thấy tiếng Việt nơi đất Việt xuống dốc thê thảm, thấy 10 người làm văn hóa tại Việt Nam tươi cười giữa màu đỏ chói cách mạng dưới khẩu hiệu “bánh trưng.” Một lỗi chính tả như thế trước hằng trăm (hay ngàn?) con mắt mà không ai thấy, tố cáo sự ngu dốt, nhưng ngu dốt không phải là một tội lỗi. Coi thường di sản tinh thần dân tộc mới là tội lỗi. Ráng vận động cho Vịnh Hạ Long được liệt vào hàng kỳ quan thế giới, trong khi bỏ bê tiếng mẹ đẻ, là phô trương cái cành mà hủy lấp cái gốc của văn minh – tiếng nói. Họ cử cán bộ ra ngoại quốc mở lớp Việt ngữ cho con em “Việt kiều,” trong khi cán bộ nói tiếng Việt sai, ngọng, chứng tỏ họ không định bảo tồn tiếng Việt, mà chỉ để đầu độc con nít.





Mục đích của bài này là trình bày sự bê bối của tiếng Việt tại Việt Nam bây giờ; sau đó, đặt vấn đề nên ứng xử như thế nào, trong đó tôi chủ trương “chiêu hồi” – không vất bỏ những chữ ta quen đóng dấu là “từ Việt cộng,” mà trả chúng về vị trí ngôn ngữ nguyên thủy của chúng, và sử dụng chúng một cách đúng đắn.

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Phạm Chí Dũng cây viết đầy hoài bão




Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-04-18

Ông Phạm Chí Dũng, một cây bút có nhiều bài phản biện mạnh mẽ từng bị bắt và câu lưu với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước và cung cấp tài liệu phản động cho báo chí nước ngoài. Tuy nhiên ông đã được đình chỉ điều tra sau khi tại ngoại được ít lâu.
Mới đây ông Dũng gửi thư yêu cầu báo Tuổi Trẻ phải xin lỗi vì đây là nơi duy nhất có bài đăng việc ông bị cơ quan điều tra với nhiều chi tiết không đúng sự thật. Hành động này của nhà báo Phạm Chí Dũng xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam nơi được coi là tiếng nói chính thống của nhà nước.
Phạm Chí Dũng là con trai của ông Phạm Văn Hùng, cựu Trưởng ban tổ chức Thành Ủy thành phố HCM.
Ông Phạm Chí Dũng là một Tiến sĩ kinh tế, cũng là một viên chức an ninh, khi viết báo ông có các bút danh Thường Sơn, Viết Lê Quân, Việt Thắng và vài tên khác. Ông đã dành cho Mặc Lâm một cuộc phỏng vấn đặc biệt về vấn đề đang được dư luận hết sức chú ý này, trước tiên ông cho biết nguyên nhân khiến ông gửi thư yêu cầu báo Tuổi  Trẻ phải xin lỗi ông dựa trên luật báo chí Việt Nam.

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

LỐI THOÁT NÀO CHO NHỮNG NGƯỜI KHÔN NGOAN ?

Phạm Chí Dũng

Trích từ Basamnews
Chỉ bị ngăn trở với Việt Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới Trung Quốc, dân tộc Mianmar lại đang chuyển mình dữ dội trên con đường đến với Tự do…
Glasnost!
Vào đầu tháng 4/2013, sau sự kiện những tờ nhật báo tư nhân đầu tiên ở Mianmar được xuất bản lần đầu tiên trong nửa thập kỷ qua, ngay cả vài nhà phân tích chính luận sắc sảo trên thế giới như báo Le Monde của Pháp vẫn chưa hết ngạc nhiên về điều được coi là đổi thay ngoạn mục ở đất nước này.
Sự ngạc nhiên của Le Monde cũng làm cho thái độ kinh ngạc của giới phân tích quốc tế biến thành một thực thể chứ không còn là cảm giác huyễn hoặc của hai năm trước đây.
Rõ như ban ngày, chỉ sau hai năm kể từ khi chính quyền quân sự chính thức bị chôn vùi, tự do báo chí đã trở thành một thực dẫn sống động, trái ngược với tâm thế bị bịt miệng trong dĩ vãng. 
Một lần nữa, các nhà bình luận phải nhắc lại từ “Glasnost” đã và đang diễn ra một cách kế thừa ở Mianmar.
Trong ngữ nghĩa tiếng Nga, “Glasnost” có nghĩa là “Công khai hóa” – một chính sách minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của cơ quan nhà nước và tự do thông tin cùng tự do ngôn luận tại Liên Xô, được đề xướng bởi Gorbachev vào nửa cuối thập niên 1980.

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?



Dương Danh Huy và cộng sự
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông



Tưởng niệm các quân nhân Việt Nam từ cả hai phía hy sinh ở Hoàng Sa - Trường Sa

Những định nghĩa pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.

Quốc gia duy trì chủ quyền

Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca.

Tòa nói công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết định và không có tính chất ràng buộc cho Johor.

Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền và dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore.

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

TPP HAY KHÚC QUANH VIỆT-MỸ?


Phạm Chí Dũng
Theo BBC

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể được khởi đầu từ tinh thần hòa giải, nhưng phải là một sự hòa giải thực chất chứ không phải bóng gió quanh co.
Nhân tố nào đang cần và còn thực sự mong đợi về một cuộc hòa giải không bình thường như thế?
“Âm mưu của kẻ thù”
Vào thời điểm kỷ niệm 24 năm từ khi Việt Nam chính thức mở cửa kinh tế, 12 năm từ lúc Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được xem như một “bước ngoặt”, 6 năm “cơ hội” cho việc lần đầu tiên quốc gia này gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, một lần nữa mối tương quan Mỹ – Việt lại chuyển sang một khúc quanh thách thức mới: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trùng thời gian với ước nguyện của Việt Nam được chấp nhận như một thành viên của TPP, những dấu hiệu vốn ngầm ẩn lại có cơ hội hiển lộ tính tín hiệu ở đất nước này.
Nhưng có vẻ trái với quy luật thường thấy, vào lần này mối liên đới về quốc phòng lại đi trước chủ đề về kinh tế.
Khi tháng 4/2013 trôi qua được gần một phần ba thời gian và vô tình sát với thời điểm diễn ra cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ được nối lại ở Hà Nội sau vài lần bị phía Mỹ từ chối, Hoa Kỳ dường như đã trở thành “phát ngôn viên” tiên phong về vấn đề bảo vệ ngư dân Việt ở khu vực Biển Đông.
William Lee – Chuẩn đô đốc phụ trách về chính sách và năng lực của Tuần duyên Hoa Kỳ, cho trang mạng US News biết về “một cuộc gặp giữa quan chức hai bên đã diễn ra trong tuần lễ sau khi có sự kiện tàu cá của Việt Nam bị Trung Quốc bắn cháy nóc cabin”; và “hai nước Việt Nam và Mỹ đang hợp tác để phát triển lực lượng cảnh sát biển đủ năng lực giúp các ngư dân Việt Nam khi họ gặp nạn”.
Rất tương đồng về mặt địa lý và có thể cả trên phương diện địa – chính trị, Biển Đông lại là một thành phần “không thể thiếu” của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, tức cũng là một thành tố nhất quán của Hiệp định TPP.
Trước tiết lộ của Chuẩn đô đốc William Lee một ngày, trong một hành động hiếm hoi, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã “ra thăm và làm việc” tại đảo Lý Sơn, được xem là một địa chỉ có nhiều ngư dân bị Trung Quốc xâm hại khi hành nghề tại vùng biển Hoàng Sa.

CHUYỆN THÁNG TƯ




CHUYỆN THÁNG TƯ


NGÀY ẤY THÁNG TƯ


NHẠC CHỦ ĐỀ THÁNG TƯ ĐEN


CHUYÊN ĐỀ VỀ CUỘC CHIẾN VIỆTNAM