Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

"MÀY GIẢ VỜ LÀM VIỆC, TAO GIẢ VỜ TRẢ LƯƠNG"


Tháng 5 29, 2013
Tony Judt
Phan Trinh dịch

Bài liên quan:

Xa cộng sản, gần con người: Bể dâu ở Tây Âu
Xa cộng sản, gần con người: Đi dây ở Đông Âu
Đọc bể dâu ở Tây Âu và Đi dây ở Đông Âu:

https://docs.google.com/file/d/1aWGAJXj2qzKYibaKlqMI22vLKmtYr8iK3Q8HYOnRF6m8F2LLOmP4fMNdV7Lv/edit
___________
Giới thiệu của người dịch:
Đây là đoạn cuối Chương 18 cuốn Post War của Tony Judt. Sau khi bàn về trí thức Tây Âu và Đông Âu, tác giả nói về nền kinh tế bế tắc và vờ vịt tại Đông Âu, bối cảnh của những biến động chính trị và xã hội dẫn đến cách mạng 1989 lật đổ cộng sản.
Nếu nghịch lý là gốc của cái hài thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xem như một vở kịch khôi hài đen, dù đỏ ngầu. Trong những vở đỏ đen nhiều tập kia, Tony Judt nhắc đến hai quái tật chết người của chế độ, ở Đông Âu trước đây, và cũng không khó thấy ở cả Việt Nam lâu nay, có thể tóm tắt nôm na như sau:
1. Lỗ vẫn làm: Thay vì kinh tế định đoạt chính trị như người cộng sản vẫn nói, chính trị cộng sản lại xúi bậy kinh tế. Kinh tế không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng mà từ ý chí chủ quan của bề trên. Trên bảo sao dưới nghe vậy, làm khác là mất việc, phản biện thì phớt lờ, phản đối thì bỏ tù. Hậu quả là lỗ vẫn làm. Ở Việt Nam, những vụ như Boxit, Vinashin, rừng phòng hộ, điện hạt nhân, đường sắt cao tốc, 16 chữ… là những ví dụ của lỗ vẫn làm, càng làm càng lỗ, hoặc thấy lỗ mà/là cứ đâm đầu vào. Không chỉ lỗ tiền, còn lỗ cả mạng người, môi trường, lãnh thổ, cả sinh mạng Đảng.
2. Sai không sửa: Tất cả những thất bại, vờ vịt của nền kinh tế kia Đảng biết cả nhưng vẫn im lặng, như một nấm mồ. Đảng không dám phẫu thuật, chỉ dám dùng thuốc giảm đau tại chỗ. Thực ra, khi kinh tế đã đan xen vào chính trị thành một “khối thống nhất” thì đứt dây động rừng, sửa sẽ sụp. Học thuật thì nói như Tony Judt: Giữa hai cái xấu, Đảng chọn cái xấu ít hơn. Huỵch toẹt thì cũng có thể nói rằng: Đảng rất hiểu cố đấm ăn xôi là xấu, nhưng vẫn đỡ xấu hơn, đỡ đau hơn và khó chết hơn là thực tâm thay đổi. (Chẳng lạ, bao nhiêu kiến nghị, phản biện, góp ý của trí thức Đảng cứ giả vờ như không có. Hóa ra, những kiến nghị kia không đánh thức được Đảng mà đánh thức xã hội dân sự.) Nhưng, cũng như ung thư không chữa, Đảng đang sống ở giai đoạn cuối, Judt gọi là mượn thời gian để sống, được ngày nào hay ngày ấy, dân gian gọi là chờ chết.
___________________

Tiến là thoái
Đề tài mà các trí thức phản kháng ít bàn tới chính là kinh tế. Điều này cũng là một phản ứng thực tế. Kể từ thời Stalin thì tăng trưởng kinh tế, hay đúng hơn là tăng trưởng công nghiệp, vừa được xem như mục tiêu vừa được xem như thước đo mức thành công của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, như trình bày trong Chương 13 cuốn sách này, là ưu tiên hàng đầu của thế hệ trí thức cải cách thời kỳ đầu: nó phản ánh nỗi ám ảnh của chế độ cộng sản và một quan điểm, được cả người theo lẫn không theo chủ nghĩa Marx đồng tình, rằng mọi động thái chính trị chung quy cũng chỉ là vì kinh tế mà thôi. Vì vậy, có thể nói trong giai đoạn 1956-1968 lúc Đông Âu loay hoay tìm cách tự cải tổ, phản biện để cải cách kinh tế chính là hình thức đối lập tốt nhất có thể có, dù là đối lập trong vòng “lễ giáo”.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Sau Nick Vujicic, sẽ có gì ở Việt Nam?


Tác giả: Phạm Xuân Thanh

Có lẽ chúng ta cần có gì đó tốt hơn và không phải chờ lần sau Nick đến để thay đổi!

LTS: Tuy Nick Vujicic đã rời Việt Nam sau chuyến đi thăm ngắn ngày, nhưng "dư âm" về con người khuyết tật vĩ đại này, vẫn để lại trong lòng người Việt những cảm xúc rất khác nhau, những suy nghĩ về "thân phận" người không may mắn giữa cộng đồng. Mới đây Tuần Việt Nam nhận được bài viết của bạn đọc Phạm Xuân Thanh, cũng là một người không may mắn, đã can đảm đứng vững trên "đôi chân" của mình, một đôi chân mà tai nạn vô tình đã cướp đi của anh. Tuần Việt Nam xin đăng tải bài viết dưới đây.

Tinh thần Nick Vujicic

Nick Vujicic đã rời Việt Nam và để lại cho chúng ta cuộc tranh cãi về con số 36 tỷ, trong bối cảnh kinh tế quá xấu hiện nay thì một con số gần hai triệu đô la cũng đáng để chúng ta suy ngẫm. Có người còn hào hứng rằng "100 tỷ cũng không lãng phí...". Dưới góc độ là một người khuyết tật làm doanh nghiệp và tạo việc làm cho người đồng cảnh tôi xin chia sẻ về chuyện "đắt rẻ" ở đất nước này.

Một doanh nghiệp như Tôn Hoa Sen chẳng hạn, có lý do để bảo vệ quan điểm rằng "với một cú hích tinh thần" thì một số tiền như thế là nhỏ để mua. Một số nghệ sĩ tên tuổi, rồi cả một anh ca sĩ người Mỹ cũng chia sẻ như vậy. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều tiền để đến đình chùa làm lễ, ở đây, được chứng kiến một câu chuyện kỳ lạ mà không phải đi du lịch xa xôi thì nhiều người ủng hộ là lẽ thường tình.

Những "cú hích" như kiểu Tôn Hoa Sen là cần thiết vì các anh ấy tạo điều kiện cho Nick nói chuyện với các doanh nghiệp để nhận một "điểm tựa tinh thần" gắng gượng vượt qua khủng hoảng.

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

LÝ NHÃ KỲ VÀ NẠN PHÁ RỪNG..."RỪNG CHẮC PHẢI ĐỢI.."


May 27, 2013 By Alan Phan


Tuần rồi anh bạn Nick Vujicic đến Việt Nam đem theo một cơn lốc về truyền thông khá vĩ đại.

Ngoài chuyện được xe mô tô của công an hộ tống, tiếp rước như một nguyên thủ quốc gia, anh

chàng Nick còn là tin nóng hàng ngày trong suốt thời gian lưu trú, bao phủ bởi 700 tờ báo lề

phải, cả trăm blog lề trái và các đài TV, radio…Chắc chắn là ngôi sao anh đã sáng rực từ Saigon

đến Hà Nội, hơn cả các Hội Nghị Trung Ương hay các lễ hội truyền thống quốc gia.

Có lẽ vì đó anh cũng gây nên nhiều ganh tị. Tôi không biết gì về anh, chưa đọc sách của anh, nên

không có bình luận gì ngoài sự công nhận tài năng PR tuyệt đỉnh của anh. Tôi cũng không suy

nghĩ nhiều về việc nhà tài trợ bỏ ra gần 2 triệu đô la cho chương trình PR này. Đó là một công ty

tư nhân; họ muốn xài tiền cách nào cho mục đích kinh doanh nào thì xài, không gì để thắc mắc.

Nhưng đọc qua các thành quả của Nick, nhất là việc anh kiếm trung bình hơn 15 triệu đô la mỗi

năm trong 3 năm qua, thì anh đã xác nhận điều tôi lập đi lập lại với các bạn trẻ:

“Cơ bắp có thể kiếm tối đa 20 đô la mỗi giờ ở Mỹ; nhưng trí tuệ thì vô giới hạn”. Một người

khuyết tật không chân tay, lợi dụng điểm yếu của mình để chinh phục thế giới, kiếm tiền qua khả

năng PR sáng tạo…Nick là một thành công về tiếp thị đáng trân trọng và cấn phân tích để lĩnh

hội đầy đủ các bài học cho mọi nhà quản lý.

Một thiên tài khác về PR là cô Lý Nhã Kỳ. Tôi cũng không biết gì về cá nhân cô này nên cũng

không có bình luận gì ngoài những kỹ năng tôi quan sát qua các tít lớn trên mạng truyền thông.

Chuyện cô vào buồng lái của Việt Nam Airlines chụp hình với các bạn phi công cũng tạo nên

cơn sốt PR “khủng”. Một chuyên viên về truyền thông ước tính là sự kiện này phủ sóng đến hơn

8 triệu người và giá trị quảng cáo có thể lên đến 3 triệu đô la về hiệu quả. Wow.

Để các bạn dễ so sánh, tôi xin đem bài viết mới nhất của tôi “Global Witness và Nước Mắt Môi

Trường” đăng trên báo Saigon Tiếp Thị chúa nhật rồi. Theo ước tính, có khoảng 6 ngàn người

đọc bài này. Cho nên về mặt PR, so với cô Lý Nhã Kỳ, tôi thực sự là một cậu sinh viên đòi dạy

toán cho G/S Ngô Bảo Châu (không biết tôi có khả năng dậy toán cho cô Lý Kỳ không nhỉ, chắc

chắn là thú vị hơn GS Châu nhiều).

Có lẽ vấn đề nằm ở chỗ tôi quá nghiêm túc khi nói về sự mất mát hơn 100 tỷ USD vì nạn phá

rừng và hủy hoại buồng phổi của quốc gia, trong khi cô Lý Nhã Kỳ chỉ muốn…(thực tình không

ai biết cô muốn gì ngoài các món hàng hiệu hơn chục tỷ mỗi thứ…).

Trong một nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng quyết định sản phẩm hay dịch vụ mình muốn

mua. Theo đúng nhu cầu của họ về mọi chỉ tiêu, chúng ta sẽ có những khách hàng trung thành,

dù món hàng có thể độc hại hay kém chất lượng. Muốn biết rõ nhu cầu, phải làm nên một profile

tổng quát (chân dung và lý lịch) của những khách hàng trong tầm nhắm này. Sự đam mê các

bộ phim Hàn Quốc và Trung Quốc chiếu mỗi ngày trên TV cũng nói lên khá nhiều cá tính của

profile.

Nhìn qua những khách hàng của Nick Vujicic và Lý Nhã Kỳ, tôi chắc chắn là cá nhân mình, hay

những đề tài mình truyền bá, không có cửa cạnh tranh nào. Cho nên bỏ qua những ồn ào về nhân

quyền hay dân chủ, tôi thấy phần lớn khách hàng vẫn rất ưa thích những món hàng hiện đang bán

chạy và mọi thay đổi về sản phẩm hay sở thích có lẽ phải mất nhiều thập niên nữa.

Rừng chắc phải đợi.

Alan Phan

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Những bài học về viện trợ của phương Tây sau Việt Nam và Campuchia



http://www.eastasiaforum.org/2013/05/11/lessons-in-western-aid-after-vietnam-and-cambodia/



18/05/2013
Lê Duy chuyển ngữ, CTV Phía Trước

Adam Fforde, Victoria University – EAF

Đã trải qua cả một thế hệ rưỡi từ khi Việt Nam mở cửa cho phương Tây, và cũng khoảng một thế hệ kể từ khi Campuchia làm những điều tương tự.
Cả hai đất nước này đã thay đổi mạnh mẽ, với mức tăng trưởng kinh tế nhanh như vũ bảo và sự xuất hiện các giai cấp trung lưu đẳng cấp quốc tế. Tuy nhiên, họ vẫn còn ngập chìm trong tham nhũng, và không được đáng tin cậy như những đối tác tới từ phương Tây của họ cũng như những vấn đề chính trị nghiêm trọng vẫn còn tồn đọng cho dù họ đã nhận được nhiều chương trình hỗ trợ từ các nước phương Tây – tại sao lại như thế?



Điểm yếu cơ bản về cách thức viện trợ của phương Tây nằm ở cách họ thực hiện. Họ tin rằng họ có thể suy diễn dễ dàng từ các bước cam kết nguồn tài nguyên tới những kết quả có thể dự đoán đượcNhưng các số liệu đã chứng minh rằng cách thức tiếp cận này sai lầm một cách trầm trọng (xem Fforde, Coping With Facts-A Skeptic’s Guide to the Problem of Development, Kumarian Press, 2009). Một vấn đề nảy sinh dẫn đến phân chia khuynh hướng bè phái – nghĩa là các nhà tài trợ khác nhau có những niềm tin khác nhau, và do đó không có một nhân vật trung ương đưa ra quyết định cuối cùng cũng như nói lên bản chất của sự thật là gì. Bài học căn bản từ Campuchia là những người nhận viện trợ một cách khôn ngoan sẽ nhanh chóng nhận ra cách để “chia và trị”. Và một điều chắc chắn nữa là: những người nhận thì học bài học này nhanh hơn nhiều so với những người tài trợ.

Các nghiên cứu về tính hiệu quả trong các phương pháp viện trợ thường củng cố quan điểm của bất cứ ai trả tiền cho họ nhiều là đưa ra những nhận định một cách chính xác những gì đang xảy ra.

Một vấn đề cơ bản nằm ở “khả năng”, và điều này lại dính lứu tới sự hợp tác. Vì các nhà viện trợ bắt đầu cung cấp các nguồn tài nguyên (hỗ trợ kỹ thuật, tiền và nhiều thứ khác nữa), những thứ họ hi vọng sẽ nhanh chóng cải thiện kinh tế và xã hội, thì lúc đó dường như có một mối liên hệ giữa nguồn tài nguyên được cung cấp cùng với sự phát triển đạt được. Nhưng mối liên hệ này không mạnh. Các nhà viện trợ chi tiêu vội vã trong các giai đoạn đầu và liên tục tìm kiếm người để giải ngân vốn, bất cứ ai có khả năng đáp ứng được các yêu cầu như việc viết báo cáo, đề nghị và đánh giá thì đều có thể đạt tiêu chuẩn. Việc này bao gồm săn đuổi những tổ chức và cá nhân với những kỹ năng ngôn ngữ, kỹ thuật cũng với một vài “kỹ năng khác” có đủ khả năng tuân thủ các yêu cầu. Và rồi nguồn vốn có thể được giải ngân và nhà tài trợ có thể tạo ra các hoạt động họ cần để báo cáo về những thành công cho chính phủ của họ. Bởi vì số lượng người đáp ứng được yêu cầu của bên viện trợ (hay nói theo cách khác “có khả năng” để giải ngân) thoạt đầu khá ít nên quá trình này gây ra nhiều tranh cãi, giá yêu cầu tài trợ được nâng lên, các nhà giải vốn thường thất bại trong việc chọn đối tác – những người này thường phù hợp làm việc trong thời gian dài (nhưng họ lại cần tìm người để giải ngân trong thời gian ngắn). Phía nhận viện trợ nhận ra điều này một cách nhanh chóng, và sau một vài năm từ khi cuộc chơi được bắt đầu, những người được lựa chọn để giải ngân lúc đầu sẽ nắm quyền kiểm soát nguồn vốn đó trong một thời gian dài. Ngoài nạn tham nhũng này và quan hệ chính trị thân hữu, các nhà viên trợ phải đối mặt với những vấn đề mới đến từ các tầng lớp ưu tú mới trong giới chính trị. Các nhà viện trợ không sẵn sàng để tính toán các chương trình về thời hạn lâu dài. Những các giới tinh hoa tại đây thì có.

Sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu địa phương hội nhập vào thế giới cũng đồng thời ngăn chặn các nhà viện trợ không thể hợp tác với những người dân địa phương bình thường. Tại cả Việt Nam và Campuchia, phần đồng người dân vẫn con nghèo (mặc dù tốt hơn nhiều so với những gì họ đã phải trải qua trước đây), không có quyền chính trị và bị thống trị bởi chế độ tham nhũng với khuynh hướng đàn áp công dân. Giáo dục phổ cập thì còn ở chất lượng thấp. Những nhà viện trợ thường tiếp cận được với người dân thường qua điều tra thăm dò (thường là về “nghèo đói”), và sử dụng các phương pháp dễ dàng bị đánh lạc hướng theo hướng có lợi cho các nhà viện trợ và tầng lớp chính trị địa phương. Việc tiếp cận những mong mỏi của người dân bình thường vẫn còn khá giới hạn. Những nhà đi du lịch bụi, các nhà nhân chủng học và những người khác thường làm các nhân viên viện trợ bang hoàng với những gì họ báo cáo.

Các tổ chức phi chính phủ địa phương phụ thuộc quá lớn vào các hỗ trợ từ bên ngoài; điều này có thể mang đến cả hai mặt xấu hoặc tốt. Sự khác biệt giữa Việt Nam và Campuchia ở điểm này cực kỳ lớn. Tại Việt Nam, các quyết định được đưa ra vào năm những năm 1990 cho phép nguồn tài nguyên viện trợ đi thẳng tới sự quản lý bởi những bàn tay “an toàn” – các tổ chức được điều hành bởi tầng lớp thống trị địa phương. Trong khi những tổ chức này có vẻ như đứng về phía các nhóm thiệt thòi, thì thực tế họ không hề dám đi những bước đi mạo hiểm nhưng cần thiết để thực sự hoạt động trong xã hội dân sự. Và do đó, những tổ chức có thể thực sự hỗ trợ công nhân, nông dân và các nhóm dân tộc thiểu số đã không được hình thành. Ở Campuchia, các nhà viện trợ đặt những nguồn tài nguyên chính vào tay các tổ chức phi chính phủ địa phương, và những tổ chức này thực sự hoạt động năng nổ vào các vấn đề chính trị nóng như tranh chấp đất đai. Do đó, các quyết định được đưa ra sớm cần được xem xét lại, và cũng có thể là chúng không cần. Các nhà viện trợ không được tổ chức để suy nghĩ thấu đáo về mặt chính trị. Những các tầng lớp tinh hoa địa phương thì có.

Các nhà viện trợ có quyền có những mục đích chính trị, nhưng họ lại được tổ chức dựa trên nền tảng sai lầm trong khâu dự đoán, và cùng với những thiếu sót trong khâu quản lý hiệu quả và lâu dài. Chính điều này giải thích tại sao họ thất bại.

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

VỊNH BỨC DƯ ĐỒ RÁCH


Trần thị LaiHồng sưu tầm

Để nhớ môt thời thơ ấu từng chạy qua nhà thờ Ông Già Bến Ngự



Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939)

Ôn cố tri tân, đọc chuyện xưa nghĩ chuyện nay, dẫu đã ngót trăm năm, hoàn cảnh và tâm trạng có khác, xưa chống ngoại xâm, nay chống giặc ngay trong nước do cấp lãnh đạo cõng về … !



Trước hiểm họa đất nước bị xâm lăng, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách. Bài thơ in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con chắu lấy làm chơi (3)
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi. (4)

Các nhà văn, nhà thơ đương thời cảm tác cùng tác giả, lên tiếng hưởng ứng, ủng hộ tư tưởng của Tản Đà bằng cách có nhiều bài họa lại… Tản Đà đồng cảm liền viết bài họa lại thứ 2 – Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 2, đăng trên ĐPTB (Đông Phương Thời báo), số 635, năm 1927:

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
Ta bồi cho chúng chị em coi
Giận cho con chắu đà hư thế
Nghĩ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi còn sông: Nhìn vẫn rõ
Có hồ có giấy dễ mà chơi.
Bởi chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.

Như được chắp thêm cánh, đồng hành bay bổng cùng Tản Đà, các nhà nho, nhà văn có tâm huyết, yêu đất nưóc, dân tộc cùng tham gia họa lại Bức Dư Đồ Rách… Tản Đà viết tiếp bài thứ 3 – Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 3, đăng trên Đông Phương Thời Báo số 636, năm 1927:

Đành chịu ngồi trông rách tả tơi
Buồn chăng? Hỡi các chị em ơi!
Nghĩ cho lúc trước thương người vẽ
Ngó lại xung quanh hiếm kẻ bồi
Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó
Non sông ai hỡi đợi chờ ai?
Còn núi còn sông còn ta đó
Có lúc ta bồi chúng bạn coi.

Cuối cùng Tản Đà tổng kết cuộc họa thơ do ông khởi xướng bằng bài Vịnh Bức Dư Đồ Rách – 4, cũng đăng trên Đông Phương Thời Báo số 643, cùng năm 1927:

Có lúc ta bồi chúng bạn coi
Chị em nay hãy tạm tin lời
Dẫu cho tài có cao là thánh
Chưa dễ tay không vá nổi trời
Hồ giấy muốn mua, tiền chẳng sẵn
Non sông đứng ngắm lệ nhường rơi
Việc nhà chung cả ai ai đó
Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?

Trong số những bài họa, có hai bài của Cụ Phan Bội Châu, cũng cùng năm 1927.
I
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi,
Ta bồi cho chúng chị em coi.
Giận cho con cái đà hư thế,
Nhớ đến ông cha dám bỏ hoài.
Còn núi, còn sông nhìn vẫn rõ,
Có hồ, có giấy dễ như chơi,
Vì chưng hồ giấy ta chưa có
Đành chịu ngồi trông rách tả tơi.
II
Hóa rách ra lành thế mới hay
Trời giăng giấy khắp, đất hồ đầy,
Non sông sẵn vóc thêu hoa gấm,
Gan óc ghe phen trổ gió mây.
Trắng úa, hồng tươi tùy thợ ý,
Bột rền, keo dẻo cốt thầy tay.
Người đà mới mới ta nên mới,
Bồi vá mà chi, kéo khuấy rầy.

Phan Bội Châu
1927

Dưới đây là bản tiếng Anh Vịnh Bức Dư Đồ Rách của Tản Đà, do Giáo sư Huỳnh Sanh Thông chuyển ngữ.

The Tattered Map
Stand there and have a look at that poor map.
Its streams and hills make sorry butts for jokes.
You know how long it took to draw the map?
Why is it now all tattered and torn up?
Our fathers purchased it, left it to us-
how dare their children make a toy of it?
Oh well, it’s no use blaming juveniles.
Let’s all do what we must and mend the map.
Huỳnh Sanh Thông

[From An Anthology of Vietnamese Poems, edited and translated by Huỳnh Sanh Thông, Yale University Press, 1996]



Bài họa Vịnh Bức Dư Đồ Rách, của Trần thị LaiHồng

Nhìn tấm dư đồ rách tả tơi
Non non nước nước ngắm nhìn coi
Cha ông xưa cố công gìn giữ
Con cháu nay hoài của bán chơi !
Ải Bắc xoẹt cắt đầu biên giới
Bờ Đông bò liếm chiếm ngàn khơi
Tổ quốc giang san nay sứt mẻ
Dư đồ một tấm tả tơi rồi !!!!!!!
Trần thị LaiHồng

Hoa bang,tháng 5, 2013,
để nhớ môt thời thơ ấu từng chạy qua nhà thờ Ông Già Bến Ngự

Chú thích :

1. Tản Đà tên thật là Nguyễn khắc Hiếu (1888-1939), người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn tây.Vì quê ông gần sông Đà và núi Tản Viên , nên lấy bút hiệu là Tản Đà.
2. Cụ Phan Bội Châu (Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 – mất ngày 29 tháng 10 năm 1940) là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du.

Cụ Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San, tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam, Thị Hán, Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v…
Từng bôn ba khắp nước và qua TRung Quốc, Nhật bản, liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại để cùng họ chống Pháp. Ông chọn một hoàng thân nhà Nguyễn, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, làm lãnh tụ phong trào Cần Vương.

Có nhiều tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước(Việt Nam Quốc sử khảo (1909), Ngục Trung Thư, Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư,Việt Nam Vong Quốc Sử, Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927) …) Các tác phẩm của ông đã tạo nên một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp. Bị Pháp bắt tại Hàng Châu, dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai. Về sau, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia. Theo Việt Nam Pháp Thuộc Sử, ông được giảm án vì phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà cầm quyền Pháp.

Từ năm 1926, ông bị đưa về sống ở Bến Ngự, Huế, cho đến khi mất tại Huế vào năm 1940. Lúc đó ông được gọi là Ông già Bến Ngự.
3. Giáo Sư Huỳnh Sanh Thông (1926-2008) gốc Hóc Môn, từng bị Pháp bắt vì chống chính quyền Pháp. Du học Hoa Kỳ, tốt nghiệp Đại học Ohio, giảng viên Việt ngữ Viện Ngoại vụ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại Washington DC, và chuyển sang dạy Văn chưong việt Nam, Đại học Yale. Ông có về ViệtNam làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã và sau đó trở lại định cư tại Hoa Kỳ, dạy tại Đại học Yale , cư ngụ trong khuôn viên Yale cho đến khi qua đời.

Ông từng dịch nhiều tác phẩm văn chương Việt Nam sang Anh ngữ, trong đó có Truyện Kiều/ The Tale of Kieu của đại thi hào Nguyễn Du. GS. Huỳnh Sanh Thông cũng là tác giả của 2 cuốn sách do nhà xuất bản Yale Press ấn hành, là An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twenthieth Centuries (Tuyển tập thi văn Việt Nam: Thế kỷ 11 đến thế kỷ 20) và Flowers from Hell (Hoa địa ngục), tức tập thơ của Nguyễn Chí Thiện. Các tác phẩm này cũng do Đại học Yale xuất bản. Ngoài ra ông là người sáng lập bộ sách Lac-Viet và tạp chí Vietnam Forum (Diễn đàn Việt Nam). Tạp chí này ra được 16 số từ năm 1983 đến năm 1997. Riêng bộ sách Lac-Viet có nhiều bài biên khảo và dịch thuật các bản văn cổ kim như “The Song of a Soldier’s Wife” tức Chinh phụ ngâm và “The Quarrel of the Six Beasts” tức Lục súc tranh công.
Ông từng là Giám đốc dự án Ðông Nam Á của Đại Học Yale, và là sáng lập viên Diễn đàn Việt Nam và cơ sở xuất bản Lạc Việt. GS. Huỳnh Sanh Thông được giải thưởng the AAS Benda Prize năm 1981 và được học bổng MacArthur Fellowship năm 1987.

Giáo sư Huỳnh Sanh Thông còn là giám đốc Yale Southeast Asian Refugee Project (Dự án của Viện đại học Yale về người tỵ nạn Đông nam Á) từ năm 1981 đến 1990.

Ông từng nhận giải “Harry J. Benda Prize in Southeast Asia Studies” vào năm 1981 và “MacArthur Fellowship” vào năm 1987.



Bây chừ Rồng đã cụt chân
Bà con thôi chớ nói gần nói xa
Cũng vì cộng sản mà ra
Quái thai bán đứng đất Cha cho Tàu*
Sử ghi tận mãi ngàn sau
Chao ôi Mẹ Việt nát nhàu...lòng đau !.

*. Phạm Văn Đồng đại diện CS ký văn tự dâng đảo cho Tàu tặc
Bây chừ bọn nó bỏ tù người dân yêu Nước . Lịch sử lại trở lại
thời bị đô hộ bởi Tàu, Pháp.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ.



BLOG CỦA ALAN NGÀY CHÚA NHẬT 12 MAY 2013

Hôm qua, dù bị cảm và ho, tôi vẫn cố gắng đến Trường DH Tài Chánh Hải Quan để trò chuyện cùng các bạn sinh viên. Thu nạp xong năng lượng của tuổi trẻ, nghe nhìn những hăng say hy vọng, căn bệnh của tôi giảm đi 50% chỉ sau vài giờ. Đó cũng là câu trả lời của tôi cho một bạn sinh viên muốn tìm bí quyết để giữ ngọn lửa đam mê nồng cháy 24/7 trong tinh thần. Hãy tìm đến những môi trường cởi mở, đặt câu hỏi, tạo kiến thức, tìm giải pháp, bắt tay thực thi tích cực và chọn lựa những bạn bè thầy cô…muốn nâng đỡ khyến khích mình những khi yếu đuối.

Phải hiểu thật sâu thật nhiều về đề tài và về công việc muốn làm…đừng sợ tin xấu, đừng lười biếng, đừng ỷ lại và đừng bỏ cuộc. Và đừng “đổ thừa” cho định mệnh, cho thể chế, cho bạn bè…Tôi vẫn nghĩ là 70% thành công hay thất bại trong mọi dự định bắt nguồn tử nội tại của tinh thần mình.
Chiều về, tôi lại được tiếp một phóng viên của một tờ tuần báo kinh tế từ Mumbai, Ấn Độ. Tôi quen biết anh ta từ 5.6 năm trước ở Hong Kong vì anh chuyên về chủ đề kinh tế tài chánh của Trung Quốc. Kỳ này, anh lại muốn phỏng vấn tôi cho một bài viết dài về kinh tế Việt Nam, cùng các triển vọng kinh doanh ở đây.
Buổi nói chuyện kéo dài hơn 6 tiếng, kể cả bữa ăn tối cạnh Hồ Bán Nguyệt. Tôi không biết anh sẽ viết những gì, nhưng chắc chắn là thú vị vì sự trao đổi rất thẳng thắn, nhất là những đề tài kinh tế chen lẫn mầu sắc chính trị. Tôi cũng không chắc là sẽ đăng lại được nguyên bài phỏng vấn ở web site này khi anh xuất bản, vì những phức tạp về pháp lý mà tôi không được phép liên quan.




Tuy nhiên, tôi xin “preview” nơi đây vài câu đặc biệt:
Q: Ông dự đoán thế nào về tình hình kinh tế của Việt Nam trong 7 tháng còn lại của 2013 và 2014?
A: Hơn 1 năm qua, tôi không còn dự đoán về kinh tế Việt Nam vì 3 lý do:
- Những số liệu thống kê chính thức, không chính thức cũng như những con số do các nhóm lơi ích tung ra đều rất mâu thuẫn và khó kiểm chứng. Rác đầu vào, rác đầu ra.
- Tôi cho rằng nền kinh tế ngầm của Việt Nam chiếm một tỷ lệ lớn hơn 30% của GDP. Do đó, khi nền kinh tế tốt, con số tăng trưởng thực sự có thể tốt hơn số liệu chánh phủ đưa ra. Nhưng khi kinh tế suy thoái, tình hình có thể tệ hơn mọi ước tính;
- Dù có liên quan nhiều đến thể chế chính trị, các nhà điều hành guồng máy kinh tế cố gắng giữ độc lập và thường phải chú tâm đến mục tiêu tối hậu của chính sách là gia tăng “thu nhập” của người dân. Gần đây, nền kinh tế Việt Nam càng ngày càng bị “chính trị hóa” và lợi ích chung của quốc gia đang bị hy sinh để phục vụ cho lợi ích của cá nhân và phe nhóm.
Giữ im lặng là cách duy nhất với một “người khách” như tôi.
Q: Những vấn đề lớn mà kinh tế Việt Nam đang phải khẩn cấp đối phó là nợ xấu ngân hàng, bong bóng BDS, nợ và thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước. Ông nghĩ chánh phủ có thể giải quyết các vấn đề này trước 2015?
A: Câu trả lời là KHÔNG.
Q: Nếu để suy thoái kéo dài, có nguy cơ nào sẽ khiến cả hệ thống tài chánh kinh tế sụp đổ?
A: Câu trả lời cũng là KHÔNG.
Q: Ông có thể biện giải thêm về lý do?
………
Cho tôi dừng ở đây và nếu có hiếu kỳ để đọc tiếp phần còn lại, xin chờ đến 3 June 2013 là ngày mà anh phóng viên nghĩ là anh ta sẽ xuất bản bài phỏng vấn.
Alan Phan

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013

PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX: PHẢN XẠ PHÊ BÌNH


Thụy Khuê


Phê bình là một trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống, là một phản xạ trước mỗi lựa chọn, mỗi hành động. Xuất phát từ ý thức bản thân: khi nghe một lời nói, một bản tin, một bài diễn văn, xem một cuốn phim, đọc một cuốn sách… phản xạ phê bình luôn luôn hiện diện, “nó” âm thầm “làm việc” trong đầu, chỉ cho ta biết điều này nghe được, điều kia ngụy biện, đoạn văn này dí dỏm, bức tranh này xấu, bản nhạc kia hay, v.v…
Mặc nhiên, ý thức phê bình tiềm ẩn trong óc, nếu muốn lộ diện bằng lời nói hay trên văn bản, “nó” phải “có gan” vượt qua thử thách từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội.

Ở phương Tây, sinh hoạt tri thức này sớm được vun xới trong gia đình: Con cái có thể tự do phát biểu trong bữa ăn, đưa ra những nhận xét “độc đáo” để phê bình cha mẹ, mà ít khả năng bị mắng, bị đánh. Do không bị ảnh hưởng nho giáo và được sống dưới chế độ dân chủ từ hơn một thế kỷ, nguời Tây phương có ý thức phê bình cao. Ý thức ấy, chẳng những không bị tiêu diệt từ trứng nước, mà còn có điều kiện phát triển trong toàn bộ sinh hoạt sống và suy nghĩ của con người từ gia đình đến xã hội.
Tại phương Đông, quyền huynh, thế phụ là trật tự kỷ cương, vì vậy, phê bình không những thiếu điều kiện phát triển mà còn bị đàn áp ngay từ đầu: Con cái chỉ có quyền “nghe lời” cha mẹ, chứ không được quyền “phát biểu”. Quyền đối thoại với cha mẹ, cho đến nay hầu như vẫn chỉ ở mức độ tối thiểu, ngay cả trong những gia đình rất Âu hoá, hoặc đang sống ở ngoại quốc. Truyền thống này làm nhụt chí con người: Rụt rè, e ngại, không dám nói trước công chúng trở thành quán tính, đặc sản của người Á đông. Đó là hậu quả của nền giáo dục ảnh hưởng đạo nho trong nhiều thế kỷ.

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2013

TỪ DÃ NGOẠI NHÂN QUYỀN...

... đến "Chọn đường" của nhà văn Phạm Thị Hoài và "Khi đảng cộng sản tự giải thể" của nhà bình luận Ngô Nhân Dụng

Submitted by Trưởng Biên Tập on Wed, 05/08/2013 - 17:20

Bình Minh



LTS Thông Luận: Trong bài này tác già Bình Minh đã nêu ra những giả thuyết dựa vào một số sự kiện được lấy làm cơ sở. Bài viết này là quan điểm riêng của tác giả. Thông Luận đăng dưới đây theo lời đề nghị của tác giả và vì sự chừng mực của lý luận nhưng đồng thời cũng xin lưu ý độc giả rằng một giả thuyết dù có cơ sở đến đâu cũng vẫn chỉ là một giả thuyết.

Tặng gia đình LHT

Buổi Dã Ngoại Nhân Quyền được tổ chức vào ngày 05/05/2013 đã rất thành công, được giới trẻ ủng hộ mạnh mẽ và tham gia đông đảo. Mặc dầu có những trấn áp bắt bớ trở ngại từ lưc lượng công an chìm nổi đang thi hành mệnh lệnh, nhưng những đe dọa kia vẫn không dập tắt được nỗi háo hức tham gia từ các tham dự viên và nói chung buổi sinh hoạt ngoài trời này vẫn được diễn ra theo dự định.

Tài liệu chính cho buổi dã ngoại này là cuốn sách nhỏ "Câu Chuyện Về Quyền Con Người" do Phong Trào Con Đường Việt Nam phát hành. Cuốn sách in rất công phu, trình bày tao nhã bắt mắt chứa đựng nội dung về những quyền căn bản của con người được giải thích đơn giản dễ hiểu. Đây là lời giới thiệu về cuốn sách trên trang nhà của Con Đường Việt Nam :

"Xin chân thành cảm ơn ông Lê Thành Ân - tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh, các mạnh thường quân, các nhà tài trợ đã giúp cho Phong trào Con Đường Việt Namcó kinh phí thực hiện cuốn sách ; cảm ơn bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi và nhà in Viet Nam Printing tại Hoa Kỳ đã phụ trách phần ấn loát và phát hành cuốn sách.

Nếu bạn cho nhu cầu nhận sách hãy liên hệ với chúng tôi qua email lienhe@conduongvietnam.org, chúng tôi sẽ sắp xếp gửi sách đến cho bạn. Mong bạn hãy tham gia góp sức, hãy là một sứ giả “Quyền con người” - giúp cho người khác hiểu về các quyền của mỗi người. Bạn có thể nhận sách để tặng cho bạn bè, người thân hoặc có thể download các file nội dung của cuốn sách để in ấn và sử dụng tùy ý của mình".

Tưởng cũng nên nhắc lại Phong Trào Con Đường Việt Nam là một phong trào được ra đời trong một bối cảnh chính trị rất phức tạp, do ông Lê Thăng Long (vừa ra tù 10 ngày) đại diện. Theo nhận định của những người đã có kinh nghiệm sống với cộng sản, sự công khai hoạt động của Phong Trào Con Đường Việt Nam vào năm 2012 như một đáp số cứu nguy cho bài toán "đa đảng" hóc búa mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải trình vào thời điểm mà uy tín của độc đảng cộng sản Việt Nam hết phương cứu chữa và phong trào đòi hỏi xé bỏ Điều 4 Hiến pháp lên cao điểm, đã tạo ra nhiều nghi vấn cho tất cả mọi người.

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH


Nguyễn-Xuân Nghĩa

....Tháng Tư vừa qua, người Việt nơi nơi đều nhớ đến biến cố 1.9.7.5 và ngậm ngùi hoặc hồ hởi về cái lẽ thắng bại oan uổng. Kẻ thắng hay người bại đều không đáng. Một trong nhiều lý do chứ không duy nhất lại là đối sách của Hoa Kỳ. Vào hay ra đều vì các động lực bất ngờ - và thay đổi.

Bài học ở đây là... không nên chống Mỹ.

Là siêu cường ở xa, Hoa Kỳ không có chủ đích xâm lược hoặc chiếm đóng Việt Nam theo lý luận có dụng ý kiểu Lenin hay Mao. Hoa Kỳ chỉ can thiệp và đổ quân vì tai nạn nội bộ của chính trường Mỹ, rồi khi đã vào thì sớm nghĩ đến ngày ra! Vì vậy, phục Mỹ hoặc phó thác sinh mệnh quốc gia cho chính trường Hoa Kỳ cũng là điều dại dột. Hay hơn cả có lẽ là phát huy những giá trị tinh thần đã làm nên sức mạnh của Hoa Kỳ cho sự thịnh vượng của chính mình.Nhưng cực kỳ thận trọng để không thành quân cờ trên bàn cờ của thiên hạ - rồi lại trông chờ vào việc nước Mỹ "chuyển trục" về Đông Á.

Quá trễ rồi chăng? //




"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Chẳng nên chống Mỹ mà cũng đừng vội phục Mỹ



* Sự nhất quán huê dạng và vô lường *


Thứ Ba mùng bảy này, khi hội kiến Tổng thống Hoa Kỳ, hiển nhiên Tổng thống Nam Hàn là bà Phác Cận Huệ đã nhớ đến một quy luật về đối sách của nước Mỹ: thêm bạn bớt thù. Với hậu quà là bạn thù gì đều thấy ngại.... Ngẫu nhiên lý thú, ngày này cũng là kỷ niệm trận Điện Biên Phủ năm 1954 của "phe chiến thắng"!


Hoa Kỳ có một quy luật bất thành văn về đối ngoại. Bất thành văn vì chẳng ghi trong Hiến pháp hay các pho sách hàn lâm của nhiều đời về chiến lược an ninh.

Đó là sau khi bảo vệ được sự vẹn toàn của một lãnh thổ phì nhiêu, vuông vức mênh mông, rồi kiểm soát được hai đại dương ở hai hướng Đông Tây, ai lên lãnh đạo cũng đều trước sau đảm bảo là không cường quốc nào trên địa cầu có thể thách đố hay uy hiếp quyền lợi của nước Mỹ. Muốn vậy, Hoa Kỳ phải có sức mạnh quân sự khả dĩ can thiệp được ở mọi nơi. Mà đó chỉ là phần tiêu cực. Phần tích cực là chánh sách kết ước với đủ loại đồng minh bằng kinh tế, ngoại giao và quân sự để bớt hao tốn công sức.