Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

HOA KỲ SAU BẦU CỬ


Nguyễn-Xuân Nghĩa -

"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Lách qua khung cửa hẹp có đầy chất nổ...


Còn đúng ba tuần nữa, cử tri Hoa Kỳ sẽ lại đi bầu. Lãnh đạo mới sẽ dẫn nước Mỹ đi về đâu?

Trong cuộc tổng tuyển cử năm nay, dân Mỹ bầu lại Tổng thống, Phó Tổng thống, Quốc hội khóa 113 gồm 435 Dân biểu Hạ viện và 33 Nghị sĩ Thượng viện, cùng 11 Thống đốc Tiểu bang và hai Đặc khu Hành chánh là Puerto Rico và Samoa thuộc Mỹ và nhiều chức vụ dân cử ở địa phương.

Theo thông lệ, người ta chú ý nhất đến cuộc bầu cử Tổng thống, khởi sự từ 19 tháng trước trong vòng sơ bộ triền miên của đảng Cộng Hoà. Thật ra, Tổng thống Hoa Kỳ không có nhiều quyền hạn như thế giới thường nghĩ. Theo Hiến pháp, Tổng thống Mỹ phải chia quyền với Quốc hội và các quyết định về nội chính như xã hội, kinh tế và ngân sách còn bị hạn chế bởi Tối cao Pháp viện và một định chế độc lập là Ngân hành Trung ương.



Nơi mà lãnh đạo Hành pháp Hoa Kỳ có thể phần nào thi thố viễn kiến và tài năng chính là lãnh vực đối ngoại.

Nhưng ngay trong lãnh vực đó, Tổng thống Mỹ vẫn phải dung hòa với hai thực tế khách quan. Thứ nhất là địa dư hình thể và quyền lợi trường cửu của Hoa Kỳ và thứ hai, sự tính toán của các quốc gia khác. Đã vậy, ông còn bị ảnh hưởng, nhiều khi bất ngờ hoặc bất lường, từ chính sách của những người tiền nhiệm.

Tuy nhiên, những giới hạn ấy vẫn bị khỏa lấp đằng sau khẩu hiệu tranh cử: "Nếu được ủng hộ, tôi sẽ mở ra một kỷ nguyên mới, và nhất là không phạm vào lỗi lầm của vị tiền nhiệm".

Việc phơi bày ra lỗi lầm đó là thực đơn tranh cử khiến dân chúng có thể bị bội thực! Nhưng rồi mọi sự vẫn lại đâu vào đấy: sau một cuộc bầu cử Tổng thống cứ bốn năm lại có một lần, lãnh đạo Hoa Kỳ rất khó phát minh ra sự lạ, hoặc làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Vậy mà lần này thì có lẽ hơi khác.

Khác như thế nào?

***

Khi tranh cử Tổng thống năm 1980, cựu Thống đốc California là Ronald Reagan đả kích Chính quyền Jimmy Carter là bang giao với Bắc Kinh năm 1979. Sau khi đắc cử, Tổng thống Reagan đẩy mạnh giao thương với Trung Quốc tới mức chưa từng thấy, để cô lập hóa Liên bang Xô viết.

Năm 1992, khi tranh cử Tổng thống, Thống đốc Arkansas là Bill Clinton cũng đả kích Chính quyền George W. H. Bush là xoá tội cho "bọn đồ tể Bắc Kinh" trong vụ thảm sát Thiên an môn năm 1989. Sau đó, ông thi hành chính sách hòa dịu với Trung Quốc chẳng kém gì ông Bush 41, còn dễ dãi mở cửa cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO!

Khi tranh cử năm 2000, Thống đốc Texas là George W. Bush phê phán Chính quyền Clinton là can thiệp vào Kosovo và đòi kiêu căng xây dựng dân chủ cho xứ khác theo mẫu mực dân chủ của Mỹ. Sau khi đắc cử, ông Bush 43 lãnh hậu quả bất ngờ từ vị tiền nhiệm là vụ khủng bố 9-11 và lại mở chiến dịch tấn công Iraq để xây dựng dân chủ tại đây hầu có thể chuyển hóa các chế độ Hồi giáo. Đấy là điều mà Phó Tổng thống Dick Cheney của ông rất ngần ngại khi còn là Tổng trưởng Quốc phòng của ông Bush 41 trong trận đánh Iraq năm 1991 để giải vây xứ Kuweit.

Khi tranh cử năm 2008, Nghị sĩ Barack Obama không ngớt lời đả kích Chính quyền Bush 43 về việc đôn quân vào Iraq để rút chạy. Khi đắc cử, ông thi hành chiến lược đó tại Afghanistan. Khác nhau chỉ ở cách đề ra thời điểm triệt thoái là năm 2014. Trong cuộc tranh cử năm nay, nguyên Thống đốc Massachussetts là Mitt Romney cũng đả kích Chính quyền Obama về nhiều điểm trong đối sách ngoại giao, như với thế giới Hồi giáo hoặc với Trung Quốc hay Liên bang Nga. Nếu đắc cử, ông cũng không thể xoay 180 độ để đơn phương đưa Hoa Kỳ qua hướng khác.

Một số thí dụ ở trên cho thấy Tổng thống Mỹ vẫn phải nương vào thực tại chứ không thể xoá bài làm lại, hoặc vẽ lại bản đồ của thế giới.

Nhưng lần này thế giới đã đổi khác....

***

Chưa đầy hai tháng sau vụ khủng bố 9-11 năm 2001 làm cả thế giới bị chấn động, Tổng thống Bush 43 đề nghị khởi động Vòng đàm phán Doha của Tổ thức Thương mại Thế giới WTO để phát triển tự do ngoại thương và hợp tác kinh tế toàn cầu. Giao thương giữa các nước có thể đem lại thịnh vượng và đẩy lui nguy cơ xung đột. Mười năm sau, vòng đàm phán ấy thất bại và tiến trình toàn cầu hóa, hoặc "nhất thể hóa" luồng trao đổi kinh tế toàn cầu, bị đẩy lui. Đây là hiện tượng chưa từng thấy từ hai chục năm nay.

Lý tưởng tự do giao dịch các nhập lượng cần thiết cho sản xuất, như tư bản, lao động và hàng hóa, có thể đem lại thịnh vượng cho mọi người và mọi quốc gia, lý tưởng đó không thành: khối lượng ngoại thương giữa các nước đã giảm mạnh và lần đầu tiên từ ba chục năm nay mà có đà gia tăng thấp hơn mức tăng trưởng vốn dĩ èo uột của kinh tế toàn cầu.

Trong từng nước, hoặc từng khối kinh tế, phản ứng bảo vệ quyền lợi nhất thời – làm mọi người đều nghèo đi – đang thành quy luật phổ biến, đầu tiên là ở tại Hoa Kỳ. Năm qua, nước Mỹ bị tụt hạng về tự do kinh tế, một tiêu chuẩn căn bản cho thịnh vượng và phát triển theo sát lý luận tư bản chủ nghĩa. Và mạng lưới kiểm soát kinh doanh gia tăng khiến nhiều tiểu doanh nghiệp chết ngộp. Mà không chỉ có Hoa Kỳ.

Vụ khủng hoảng chưa lối thoát tại Âu Châu đang cản trở luồng giao dịch tư bản tài chánh và lao động hay di dân giữa 27 thành viên của Liên hiệp Âu châu. Rủi ro không chỉ giới hạn trong khối Euro, khiến đồng Euro có thể bị mẻ, mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc và phản ứng ly khai để đòi thêm quyền tự trị ngay trong từng nước.

Sau phản ứng tự trị của cộng đồng Catalonia ở Tây Ban Nha, tuần qua, khi Tổng trưởng Tài chánh Thụy Điển nói thẳng là Hy Lạp nên ra khỏi khối Euro và khi cử tri của nước Bỉ bỏ phiếu cho xu hướng ly khai của dân Flanders (Flamants) tại Antwerp (Anvers), người ta nhìn ra một mối nguy chưa từng thấy từ 1945.

Và ngẫm nghĩ về sự khôi hài của giải Nobel Hoà bình năm nay được trao cho Liên Âu!

Cũng tuần qua, nhân khóa họp hàng năm của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới tại Tokyo, thế giới còn chứng kiến sự bất lực và thiếu thống nhất của các quốc gia, các định chế quốc tế và lãnh đạo các ngân hàng trung ương trong việc cứu nguy kinh tế toàn cầu. Khi Thống đốc Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ còn nhập cuộc và gián tiếp đả kích Trung Quốc là duy trì trị giá đồng bạc quá thấp để trục lợi bất chính, thì ta phải đoán ra những mâu thuẫn rất khó hàn gắn.

Mâu thuẫn nặng nề nhất về cả kinh tế lẫn an ninh chiến lược là tranh chấp giữa hai nền kinh tế dẫn đầu Á châu là Trung Quốc và Nhật Bản.

Vấn đề không chỉ là năm hòn đảo nhỏ trên biển Hoa Đông mà còn là vị trí tương lai của một cường quốc đang lên và một cường quốc hải dương chưa ra khỏi chu kỳ khủng hoảng kéo dài hai chục năm. Cả hai nền kinh tế này đang giao dịch buôn bán với nhau mà vẫn có thể xẵng giọng và hy sinh sự ổn định và thịnh vượng vì những nguyên lý chính trị bên trong nội bộ.

Sau khi nhậm chức năm 2009, Tổng thống Obama tung ra quốc sách phát triển xuất cảng để tạo thêm hai triệu việc trong năm năm nhờ nhân đôi lượng hàng hóa bán ra ngoài. Cuối nhiệm kỳ, chỉ tiêu đó vẫn xa vời và ông thi đua cùng đối thủ Mitt Romney để đả kích Trung Quốc về đủ mọi tội và tung sáng kiến trừng phạt Bắc Kinh trong khuôn khổ WTO.

Suy từ kinh nghiệm quá khứ, người ta có thể cho rằng đấy chỉ là lập luận tranh thủ của hai ứng cử viên, chứ sau đó thì mọi chuyện đều sẽ lại như xưa. Mọi chuyện sẽ không được như vậy: lãnh đạo đang lên tại Trung Quốc có quá nhiều vấn đề bên trong, trước và sau Đại hội 18. Lãnh đạo Hoa Kỳ cũng vậy.

Khả năng xoay trở của cả hai nước đều bị thu hẹp trong một thế giới ngặt nghèo và đa nghi hơn. Chuyện hấp dẫn đến nghẹt thở!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét