Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

VIỆT NAM VÀ HOA KỲ: MỘT CẶP TÌNH NHÂN KHÔNG CÂN XỨNG

Việt Nam và Hoa Kỳ: một cặp tình nhân không cân xứng
Tác giả: David Brown *

Người dịch: Trần Văn Minh
Hiệu đính: David Brown
27-03-2012

http://www.asiasentinel.com/index.php?option=com_content&task=view&id=4369&Itemid=188

Một liên minh trong thuận tiện trở thành một quan hệ chiến lược.
Đặc biệt vào năm bầu cử Mỹ này, những vấn đề nhân quyền sẽ thử thách sự bền vững trong việc lập lại mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kẻ thù xưa mà hình như bây giờ đang trở thành bạn tốt.
Viên chức từ Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn gặp nhau thường xuyên vào những ngày này. Một kẻ nghe trộm những cuộc tiếp xúc như thế có thể kết luận rằng nỗi nghi kỵ của hai thế hệ trước, vốn được người Việt Nam gọi là “chiến tranh chống Mỹ”, chỉ là một chướng ngại nhỏ trên con đường dẫn tới sự giao hảo.
Thực ra, các viên chức có nhiều điều để bàn thảo. Họ sửa soạn một danh sách dài những quyền lợi chung bao gồm thương mại hai chiều đang bùng phát, suy tính về một hợp tác quân sự, sự hỗ trợ của Hoa Kỳ về vấn đề y tế công cộng, giáo dục và dự thảo về bảo vệ môi trường và một hiệp ước để mở đường cho việc chuyển giao kỹ thuật nguyên tử Mỹ.
Khi nghi thức nâng ly bắt đầu sau một ngày đàm phán, người ta thấy nhắc đến bước ‘tiến triển’ nổi bật trong sự hợp tác giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn.
Điều đáng kể không phải vấn đề kẻ thù xưa bây giờ trở thành bạn, nhưng là một liên minh trong thuận tiện đã được tô điểm và phô diễn như một mối ‘liên hệ chiến lược’.
Hai mục đích dẫn đường Hà Nội trong mối quan hệ trở lại với Hoa Kỳ:

• Năng lực của nhà cầm quyền để đem lại sự phát triển kinh tế bền vững cho người dân Việt Nam tùy thuộc chính yếu vào vấn đề tiếp cận dễ dàng với thị trường Mỹ và tài chính đầu tư, và
• Sự hợp tác của quân đội Hoa Kỳ sẽ làm cho Trung Quốc phải nghĩ lại về tham vọng bá quyền ở biển Đông.

Liên hệ kinh tế hai chiều đã được tiến hành từ đầu thập niên 1990, khi sự sụp đổ của Liên Xô phá gẫy cây chống cho nền kinh tế ‘xã hội chủ nghĩa’ mong manh. Quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ đã được thiết lập vào năm 1996, và một hiệp ước thương mại song phương đã được thương thảo vào giữa năm 1999.
Tuy nhiên, hơn một năm sau, Bộ Chính Trị mới phê chuẩn hiệp ước thương mại. Trước tiên, phải thuyết phục phe bảo thủ dứt bỏ sự nghi ngờ về động lực của Mỹ – cụ thể được mô tả là hỗ trợ cho ‘diễn biến chính trị hòa bình’ theo mô hình Đông Âu. Trở ngại đó đã vượt qua. Vào năm 2007, với sự cố vấn của Mỹ và khuynh hướng đổi mới thắng thế trong đảng và nhà nước, Hà Nội đã gia nhập vào Tổ Chức Thương mại Thế Giới (WTO).
Tuy nhiên, WTO đã không gây ra ảnh hưởng mạnh đối với nền kinh tế như những nhà đổi mới dự đoán. Trước sự khăng khăng của giới bảo thủ trong đảng cộng sản đầy quyền lực, Hà Nội vẫn tiếp tục nuông chiều một hệ thống doanh nghiệp nhà nước béo phì và thiếu hiệu quả. Hệ quả nghịch lý này đã vắt cạn lợi nhuận mà người Việt trông đợi từ quá trình toàn cầu hoá.
Sự bế tắc về chính sách trong việc cải tổ doanh nghiệp nhà nước có thể giải thích sự quyết định khá bất ngờ của chính quyền Việt Nam khi theo chân Hoa Kỳ trong việc đàm phán ‘Đối Tác Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương’ (TPP). Những thành viên khác tham gia đàm phán TPP là Singapore, New Zealand, Brunei, Mã Lai Á, Úc Châu và Peru và sớm sẽ có thêm Nhật Bản, Nam Hàn, Gia Nã Đại, Mễ Tây Cơ và Đài Loan – nhưng đáng chú ý là không có Trung Quốc. Việt Nam là nước kém phát triển nhất trong nhóm.
TPP từng được mô tả là bàn đạp cho Hiệp Ước Thương Mại Tự Do Châu Á – Thái Bình Dương và một ‘khuôn mẫu của thế kỷ 21’ đòi hỏi thành viên phải tự do hóa thương mại về nông phẩm và dịch vụ, dỡ bỏ giới hạn nhập khẩu và tăng cường việc bảo vệ tài sản trí tuệ.
Khi hiệp ước TPP thành hình, Hà Nội chắc chắn sẽ được lợi trong việc tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường các quốc gia phát triển cho hàng xuất khẩu của mình. Tuy nhiên, để đổi lại, Hà Nội cũng sẽ bị bắt buộc phải chấm dứt tình trạng mất cân đối do chính sách thị trường nội địa ưu đãi lãnh vực tập đoàn quốc doanh và chú tâm đến quyền lợi lao động và vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ. Đây có lẽ thực sự là chủ đích của những nhà cải cách, có nghĩa là, họ hy vọng dùng hiệp ước mở cửa thị trường mới này để thúc đẩy sự đồng thuận về chính sách trong việc cải tổ cơ cấu trong nước.
Sự hợp tác an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là một hiện tượng chỉ mới đây, và là điểm then chốt của chiến lược toàn cầu hóa quốc phòng của Việt Nam. Hà Nội cũng theo đuổi quan hệ quân sự gần gũi hơn với những láng giềng Châu Á, Úc, Nhật Bản, Ấn Độ, Pháp và Nga. Hà Nội hy vọng những mối quan hệ này sẽ hỗ trợ khả năng chống lại sự lấn chiếm của Trung Quốc trong những vùng biển tranh chấp. Dĩ nhiên không phải Hà Nội muốn đánh nhau. Lãnh đạo Hà Nội e ngại sức mạnh của Trung Quốc và – trên nền tảng giữa hai đảng – tôn trọng tình bạn với Trung Quốc miễn là họ ngưng những hành động bắt nạt.
Sự khẳng định của Việt Nam không nhượng bộ trong vấn đề chủ quyền biển đảo rất phù hợp với quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc ngăn ngừa bất cứ hạn chế nào về tự do giao thông qua eo biển Malacca và đường thủy vận Biển Đông. Ngũ Giác Đài đã hăng hái gia tăng thao luyện quân sự với Việt Nam, chú tâm đến công việc tìm kiếm và giải cứu, an ninh hàng hải và cứu trợ thiên tai. Có những chuyến tàu thăm viếng được phổ biến sâu rộng cũng như sự trao đổi tin tức tình báo quân sự khá thận trọng. Tuy nhiên, trước sự thất vọng của Hà Nội, Hoa Thịnh Đốn đã từ chối trước yêu cầu mua vũ khí sát thương của Hà Nội.
Thái độ của chính quyền Việt Nam trước vấn đề nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam vẫn còn là một trở ngại lớn trong quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam. Một thế hệ người Mỹ gốc Việt mới hiểu biết chính trị không những quan tâm đến vấn đề này mà còn có thể dùng lá phiếu để ảnh hưởng. Nhất là trong năm bầu cử của Mỹ này, sự đàn áp những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam có thể thọc chiếc gậy vào trong guồng máy thương lượng về an ninh và thương mại song phương.
Điều đó không phải là sự ngạc nhiên cho Hà Nội. Các viên chức Hoa Kỳ từ Ngoại trưởng Hillary Clinton trở xuống đã nhấn mạnh rằng sự kiềm chế của Việt Nam đối với “tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu” là một trở ngại cho mối liên hệ gần gũi hơn. Hai thượng Nghị sĩ John McCain và Joseph Lieberman đã công khai lên tiếng khi hai ông ghé thăm Hà Nội: Việt Nam “có một danh sách dài những mặt hàng quân sự đang thèm muốn, (nhưng) … Điều này sẽ không xảy ra trừ khi họ cải thiện hồ sơ nhân quyền”.
Sự liên hệ giữa thành tích nhân quyền và sự tiếp cận của Việt Nam với thị trường Mỹ không trực tiếp mấy. Trong khi việc bán vũ khí cho Việt Nam đòi hỏi sự chấp thuận đặc biệt của Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng sẽ không chắc rằng Quốc hội sẽ từ chối hợp tác nếu hiệp ước TPP được ký kết. Nền xuất cảng của Việt Nam vẫn có thể bị thương tổn nếu Quốc hội Hoa Kỳ đặt thêm những điều khoản trong tiến trình soạn thảo luật, bao gồm một hiệp ước đầu tư song phương và một hợp đồng về chuyển giao kỹ thuật nguyên tử.
Có nhiều cách để vấn đề nhân quyền có thể ảnh hưởng thái độ của Mỹ. Thí dụ, vào ngày 20 tháng Ba, Việt Nam bị đấm bởi một ủy hội được Quốc hội Hoa Kỳ thành lập để theo dõi cách hành xử của những quốc gia khác về vấn đề tự do tôn giáo. Ủy hội khuyến cáo chỉ định Việt Nam là một “Quốc gia đáng quan tâm,” xếp chung với cùng loại như Bắc Hàn, Trung Quốc, Iran và Sudan. Cụ thể là ủy hội tố cáo Việt Nam về “những vi phạm tự do tôn giáo và tín ngưỡng mang tính hệ thống và nghiêm trọng” trong năm 2011.
Việt Nam thoát khỏi sổ đen về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ từ năm 2006. Lập lại điều này không đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ phải cấm vận Việt Nam – nhưng nó là một cái cớ thuận tiện để Quốc hội từ chối những điều Hà Nội muốn từ Hoa Kỳ.
Liệu sự lên án của ủy hội có thúc đẩy Việt Nam thay đổi hành vi? Chắc chắn là không – Hà Nội thường cố thủ khi bị áp lực. Rất hiếm hoặc không có khả năng nhà cầm quyền Cộng sản chứng tỏ sự khoan dung hơn cho những ai đòi hỏi dân chủ đa nguyên đa đảng hay những người đòi hỏi quyền được thiết lập những tổ chức tôn giáo, lao động hay ngành nghề bên ngoài các cấu trúc nhà nước. Đây là những vấn đề “ổn định xã hội” nền tảng đối với nhà cầm quyền. Cho dù với khuynh hướng đổi mới hay bảo thủ, lãnh đạo Hà Nội xem việc giữ vững quyền chuyên chế độc tài của Đảng thì quan trọng hơn so với bất cứ quan hệ chiến lược hay hiệp ước thương mại nào.
Trung Quốc cũng có thể là một vấn đề. Một mối đe dọa khác cho tình bạn đang chín mùi giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội là sự can thiệp của Trung Quốc vào công việc tìm kiếm dầu khí ngoài khơi Việt Nam. Hồi mùa xuân năm ngoái, tàu tuần duyên Trung Quốc đã sách nhiễu tàu thăm dò dầu khí làm việc cho PetroVietnam và cho công ty dầu Phi Luật Tân. Tai nạn đã khơi động một làn sóng biểu tình yêu nước ở Việt Nam và đã thúc dục Hà Nội theo đuổi liên hệ chiến lược với những diễn viên khác trong vùng.
Những chuyên gia về Trung Quốc biện luận rằng sự khiêu khích mùa xuân vừa qua có thể là hành động không được phê chuẩn bởi thành phần cố ý bảo vệ sự đòi hỏi mù mờ về chủ quyền vùng biển Đông kéo dài cho đến Singapore. Thật hay giả, ít nhất là có một phe phái đáng kể ở Bắc Kinh không muốn những quốc gia khác hút dầu và khí (vẫn còn chưa khám phá) mà họ xem là của riêng họ.
Các công ty dầu lớn đã được cảnh báo rằng nếu muốn dự phần ở Trung Quốc thì tốt hết nên ra khỏi Việt Nam. Hãng BP của Anh đã bán tài sản ở Việt Nam năm 2010, và đầu năm nay hãng dầu đứng thứ nhì của Mỹ, Conoco-Phillips, đã bán phần trị giá 1 tỷ mỹ kim ở Việt Nam cho một hãng Pháp. Dù vậy, Exxon-Mobil nói rằng họ đang có quyết định khai thác một khám phá mới đây ngoài khơi miền trung Việt Nam.
Hoạt động thăm dò dầu khí gia tăng trong mùa xuân. Nếu có thêm những biến cố như năm ngoái thì có thể áp lực Hoa Thịnh Đốn phải can thiệp. Những chuyện này sẽ khó tránh khỏi tham dự vào nội tình chính trị Hoa Kỳ.
Công việc của những nhà ngoại giao không chỉ tìm hiểu những đối tác ngoại quốc nói gì mà còn là tại sao, để có một cái nhìn rõ ràng về tính khả thi và, trên hết là không đánh giá quá cao vào những gì đang đàm phán khi tường trình cho cấp trên. Miễn là những nhà ngoại giao của họ hai bên giữ đúng điều này, cả Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn rất có thể thấy lợi ích trong việc ngăn chặn lửa cháy bên dưới sự qua lại của họ một thời gian – ít nhất cho tới cuối năm. Cả hai bên đều không nằm trong tư thế để tiến xa hơn nữa. Thử thách hiện thời sẽ là duy trì những gì đã đạt được, đương đầu với những áp lực, và không để mất lòng tin và/hay tố cáo lẫn nhau.
Tác giả: Ông David Brown là một cựviên chức ngoại giao Hoa Kỳ với nhiều kinh nghiệm về Đông Á Châu, đặc biệt là Việt Nam.
Chú thích Ảnh: Hoa Kỳ sẽ không cần lấy lại điều này.
Nguồn: Asia Sentinel


Bí Ẩn 30.4.1975

09/01/2012

Tài liệu tham khảo của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận

1) Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái. –

Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow…. với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (- World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.
Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton… - trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford. - trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton. - trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan. - trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh… Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ ..

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng“. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) .
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!

Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)… Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:“Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) .
Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) .

Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .

Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh “nướng quân ” hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng “ Đồng Minh tháo chạy ” (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ” Về miền đất hứa / Exodus ” của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ” Bài học Israel ( Do Thái ) “ .

Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay!

Phạm Trần Hoàng Việt




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét