Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

THE RAID. VỤ TẬP KÍCH SƠN-TÂY.

https://docs.google.com/file/d/1Xw7V6Jryn3nSimP4eg3EGYolPE__iF97iFDECBJUYYM-tcqkDVEdlwuHJkOU/edit?pli=1

QUYỂN THE RAID ĐƯỢC CHUYỂN QUA VIỆT NGỮ.



http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/05/110510_us_raids_reminder.shtml

Đặc nhiệm Mỹ từ Sơn Tây tới Abbottabad




Vụ đặc nhiệm Mỹ, Bấm Navy Seals hạ sát ông Osama Bin Laden ở Abbottabad đã gợi lại một số cuộc tập kích thành bại khác nhau bằng trực thăng trước đó của Hoa Kỳ vào lãnh thổ nước khác, gồm cả cuộc tập kích Sơn Tây năm 1970 và vụ Iran năm 1980.
Điều được một số nhà quan sát nêu ra là cả hai cuộc tập kích ở Pakistan vừa qua, và Bắc Việt Nam đều được coi là thắng lợi dù cả hai lần, Hoa Kỳ phải để lại một trực thăng tại hiện trường vì những lý do khác nhau.
Vụ tập kích Sơn Tây
Dù giới quân sự Mỹ nói họ "thường xuyên có các cuộc đột nhập và giải cứu" trên lãnh thổ Bắc Việt Nam thời chiến, nhưng vụ Sơn Tây, xảy ra ở nơi cách Hà Nội chưa tới 50 cây số, là cuộc tập kích táo bạo nhất của Hoa Kỳ người ta biết đến trong Chiến tranh Việt Nam.
Một đơn đặc nhiệm Hoa Kỳ đã bay từ căn cứ tại Thái Lan đêm 20/11 vào Sơn Tây nhằm giải cứu các tù binh là phi công Mỹ mà Hoa Kỳ tin là bị cầm giữ tại đây.
Nhưng khi họ xuống đến nơi sáng ngày 21/11/1970 thì không còn tù binh nào cả và trại Sơn Tây đã bị bỏ trống từ tháng 7 năm đó.


Phù hiệu của những cựu binh Mỹ tham gia cuộc tập kích Sơn Tây

Các tài liệu và sách vở sau này của Hà Nội có xu hướng cho rằng đây là một thất bại của Hoa Kỳ.
"Đây là một kế hoạch được Mỹ chuẩn bị hết sức công phu, tốn kém, với sự tham gia của rất nhiều các quan chức chóp bu trong bộ máy chiến tranh khổng lồ của một cường quốc quân sự hồi đó: Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird, Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers, Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, Giám đốc Cục tình báo CIA Richard Helms".
Họ cũng viết rằng đích thân Tổng thống Mỹ đương nhiệm Richard Nixon đã phê chuẩn cho kế hoạch này.
Một cuốn sách ra năm 2000 của Đặng Vương Hưng còn nói "kế hoạch về Vụ tập kích cứu phi công Mỹ bị giam giữ ở Sơn Tây nói trên đã nằm trong số những hồ sơ lưu trữ tuyệt mật của quân đội Mỹ".
Đúng là kế hoạch lên từ 1967 được giữ tuyệt mật nhưng sau cuộc tập kích Sơn Tây, chính giới Hoa Kỳ đã có nhiều cuộc điều tra, chất vấn tìm hiểu vụ việc và các tài liệu này sau đó được công bố rộng rãi.
Các binh sĩ tham gia cuộc tập kích sau này lập ra hội "Son Tây Raiders" và kể cho báo chí nhiều điều.
Họ được thưởng các huân huy chương Thập tự Ưu tú, Thập tự Không quân và Sao Bạc của quân đội Mỹ.
Cuốn sách "The Raid" của Benjamin F.Schemmer (đã được dịch và phát hành tại Việt Nam) sử dụng nhiều chi tiết từ những lời kể này.
Các hồ sơ phía Mỹ cũng ghi nhận một cái nhìn hơi khác Hà Nội về thành bại của vụ Sơn Tây.
Dù bị chất vấn xoay quanh lý do tin tình báo không được cập nhật, nhìn chung giới quân sự Hoa Kỳ tin rằng cuộc tập kích vào trại tù Sơn Tây là một "thắng lợi chiến thuật", vì việc thực hiện gần như hoàn hảo.
Các nguồn của phía Mỹ cũng cho rằng họ đã tiêu diệt từ 100 đến 200 quân Bắc Việt Nam tại trại Sơn Tây.
Trích sách của B.F.Schemmer
Chiếc trực thăng đổ nhào xuống ngay trong doanh trại Sơn Tây dữ dội quá, dữ dội hơn là Dick Meadows đã tưởng...Phi công H.Kalen suýt nữa không điều khiển chiếc trực thăng vào giây phút cuối, khi bay sát ngọn cây và bị vướng vào dây phơi quần áo mắc qua sân trại, như là sân bóng chuyền. Viên phi công phụ của Kalen là Herb Zehnder còn nhớ rõ có một cây cao tới 150 bộ. Cây này bị cắt phăng ra như một cọng cỏ...Cả chiếc trực thăng lồng lộn dữ dội và nghiêng về bên phải từ 30 đến 40 độ, rồi đổ ào xuống đất.

Sự va chạm quá nặng làm cho một bình chữa cháy bị tung ra và đập vào chân viên kỹ sư cơ khí của Kalen là Leroy Wright làm cho anh ta vỡ cổ chân. Trong khi đó thì trung uý George Petrie một sĩ quan mũ nồi xanh 31 tuổi, tóc vàng, cũng bị hất tung ra khỏi trực thăng.
Dick Meadows vùng ngay dậy và chạy thoát ra cửa sau đuôi trực thăng, tay bấm vào loa phóng thanh...chạy thoát ra khỏi trực thăng vào khoảng 15 yard thì Meadows quỳ xuống, bám vào chốt loa và hít hơi lấy sức. Ông ta bắt đầu phát thanh với giọng bình tĩnh: “Chúng tôi là người Mỹ, xin các anh cúi xuống. Chúng tôi là người Mỹ. Đây là một cuộc giải cứu. Chúng tôi đến đây để cứu các anh ra khỏi chỗ này. Yêu cầu tất cả cúi xuống, nằm xuống sàn nhà. Chúng tôi sẽ vào phòng giam của các anh trong vài phút nữa”.

Tiếng nói của ông ta vang vọng khắp nơi trong doanh trại.

Nhưng không có tiếng trả lời.
Tác động tuyên truyền
So với Sơn Tây hay vụ đột nhập vào Iran, thì tại Abbottabad, Hoa Kỳ thắng lợi cả về chiến thuật và chiến lược vì phía Mỹ không hề hấn gì (chỉ một biệt kích Mỹ bị trẹo chân), và giết được Osama Bin Laden, nhưng về ngoại giao với Pakistan thì chưa rõ hệ quả và hậu quả vụ đột nhập ra sao.
Về mặt ngoại giao và thế mạnh truyền thông, ban đầu dư luận Mỹ tin rằng vụ Abbottabad là một cú ghi điểm lớn cho Tổng thống Barack Obama.
Nhưng sau khi ông Osama Bin Laden đã chết và bị thủy táng ngoài biển, cùng với việc công bố nhiều bức hình khác nhau về cuộc sống của ông ta trong khu nhà ở Pakistan, có những ý kiến nay coi vụ việc không có lợi cho Tòa Bạch Ốc.
Sau vụ Abu Ghraib, quân đội Mỹ cũng chú ý kỹ hơn về tác động "phản cảm" của hình ảnh chụp riêng tư với kẻ thù, dù là kẻ thù sống hay chết và đội Navy Seals đã không được phép chụp hình hay quay video riêng với xác của ông Osama Bin Laden mà họ chở bằng trực thăng bay về Afghanistan.
Việc kiểm soát các hình ảnh sau đó về vụ tập kích Abbottabad cũng và video về ông Bin Laden cũng được điều phối kỹ nhằm ngăn ngừa tình trạng phản tác dụng.
Nhưng theo bình luận của Peter Roff trên trang US News hôm 7/5 thì vì hạ sát ông Osama Bin Laden nhanh quá thay vì đem ra xử, Tổng thống Obama đã "biến Osama thành một người tử đạo" hơn là con người thực của ông ta.
Ngoài ra, dư luận Mỹ dù tin tổng thống, vẫn muốn được thấy bức hình hay đoạn video nào đó chứng minh Osama Bin Laden thực sự đã chết.
Việc Tòa Bạch Ốc không công bố các hình ảnh này đang đặt ra nhiều câu hỏi về cách họ xử lý truyền thông sau vụ Abbottabad.
Dù vậy, chiến dịch giết Osama Bin Laden cũng còn tốt đẹp hơn hẳn cuộc tập kích của Hoa Kỳ vào Iran để giải cứu con tin người Mỹ năm 1980.
Chiến dịch Móng Ó ̣(Eagle Claw) tháng 4/1980 với tám trực thăng RH-53D bay vào sa mạc phía Đông Iran đã không đem lại kết quả.
Bão cát, liên lạc bị đứt và lỗi kỹ thuật đã làm xảy ra tai nạn (trực thăng đâm vào phi cơ C-130) khiến phía Hoa Kỳ bị thiệt hại tám quân nhân, một số khác bị thương và sứ vụ của họ phải bỏ.
Một cuộc cấp cứu sau đó, vào tháng 10 cùng năm cũng thất bại ngay ở bước chuẩn bị với một phi cơ đâm xuống căn cứ vì hỏa tiễn bắn ra sớm quá.
Hậu quả chính trị và khủng hoảng về tuyên truyền cho Hoa Kỳ và riêng Tổng thống Jimmy Carter khi đó là rất lớn.
Lãnh tụ Hồi giáo Iran, Giáo chủ Khomeini nổi tiếng như cồn tại Trung Đông và uy tín của Hoa Kỳ tụt dốc.
Nay nhìn lại, mỗi cuộc tập kích là một dấu ấn cho từng vị tổng thống Mỹ.
Ông Richard Nixon được nói đến với cuộc tập kích Sơn Tây, ông Jimmy Carter với vụ Iran và ông Barack Obama đã, đang và sẽ còn được bình luận qua lăng kính vụ Abbottabad.




Vụ tập kích Sơn Tây


CUỘC ÐỘT KÍCH GIẢI CỨU TÙ BINH Ở
SƠN TÂY


Vương Hồng Anh

...Một số hoạt động trong vùng địch của các đơn vị đặc nhiệm Việt-Mỹ như NACV-SOG, Trung Tâm Huấn luyện và Hành Quân Delta (kế hoạch Delta, kế hoạch Omega của bộ phận B-50, và kế hoạch Sigma của bộ phận B-56 đã được thi hành trong thời gian từ năm 1964 đến giữa năm 1970. Sau thời gian này, Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt (LLDB) Hoa Kỳ tại Việt Nam chấm dứt các hoạt động biệt kích trên chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên các hoạt động đặc nhiệm mang tính cách chiến lược và hành động khẩn cấp vẫn được Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thực hiện, và một trong những công tác ngoạn mục nhất và nguy hiểm nhất của binh chủng này là cuộc hành quân đột kích giải cứu tù binh Mỹ tại nhà tù Sơn Tây, cách Hà Nội 23 miles về hướng Tây Bắc Việt.

Công tác đặc biệt này được gọi là Cuộc Hành Quân Đặc Nhiệm Kingpin POW, và đã diễn ra ngày 21 tháng 11 năm 1970 do Đại Tá Arthur Simons với biệt danh "Bò Tót" chỉ huy. Lực Lượng Đặc Nhiệm gồm 56 quân nhân được chọn từ toán Lực Lượng Đặc Biệt số 6 và số 7 tại Trung Tâm Chiến Tranh Đặc Biệt Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Fort Brag, tiểu bang North Carolina. Và một số quân nhân khác cũng đã được chọn từ trường Biệt Động ở Fort Beening, tiểu bang Georgia.

Được chính thức hoạt động ngày 8 tháng 8 năm 1970 với danh xưng Lực Lượng Đặc Nhiệm Liên Quân Bờ Biển Ngà, kế hoạch này được Chuẩn Tướng Donald Blackburn, phụ tá đặc biệt về hoạt động cho Bộ Tham Mưu Liên Quân soạn thảo. năm 1965, khi còn mang cấp Đại Tá, ông được bổ nhiệm giữ chức chỉ huy trưởng MACV-SOG (Military Assistance Command Vietnam - Special Observation Group). Năm 1970, ông là người đưa ra ý kiến tổ chức cuộc đột kích và đệ trình kế hoạch tổng quát lên tổng tham mưu trưởng liên quân là đại tướng Earle Wheeler.

Tháng 6 năm 1970, Đại Tướng Lục Quân Aerle Wheeler chuẩn y kế hoạch tổng quát để giải cứu tù binh Mỹ do Chuẩn Tướng Blackburn đề xướng, đồng thời chỉ định một toán gồm 15 chuyên viên tình báo được đặt dưới quyền điều động của vị tướng này để bắt tay vào việc soạn thảo chi tiết kế hoạch. Kế hoạch này được phân chia thành 3 giai đoạn.

GIAI ĐOẠN 1: THU THẬP TIN TỨC TÌNH BÁO

Trại tù Sơn Tây không lớn, được xây dựng theo phối trí hình vuông, mỗi cạnh có chiều dài khoảng 45 mét, chung quanh có tường cao trên 2 mét. Trại nằm giữa một ruộng lúa, quanh trại có 3 vọng gác cao, tù binh Mỹ bị nhốt trong bốn cán láng.

Trại Sơn Tây và Ấp Lỡ, một trại tù binh khác, đã được toán Tình Báo Đặc Nhiệm Tù Binh Hoa Kỳ xác định vị trí vào tháng 5 năm 1970. Đây là toán đặc nhiệm được thành lập vào năm 1967 với nhiệm vụ là theo dõi hồ sơ các tù binh Mỹ, xác định vị trí của các trại tù, để thông báo cho Không Quân Hoa Kỳ tránh thả bom vào các khu vực đó. Riêng trại tù Sơn Tây, theo sự xác định của toán đặc nhiệm, trại này giam giữ khoảng 55 tù binh Hoa Kỳ.

Sau khi đã xác định vị trí, Không quân Hoa Kỳ đã tiến hành các chuyến bay thám sát. Không ảnh từ các chuyến bay tiết lộ những trở ngại quan trọng chung quanh trại tù. Đó là một bộ chỉ huy của Sư Đoàn 12 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), gồm 12 ngàn bộ đội đồn trú gần đó, và một trường huấn luyện Pháo Binh Bắc Việt. Cách trại Sơn Tây 500 mét là một trường trung học. Tại tỉnh Phúc Yên, miền Bắc, cách trại tù 32 km là một căn cứ Không Quân. Như thế có nghĩa là cuộc đột kích phải được thực hiện chớp nhoáng vì viện binh của địch quân có thể hiện diện mau lẹ tại trận địa.

GIAI ĐOẠN 2: TUYỂN MỘ VÀ HUẤN LUYỆN

Ở giai đoạn này, Lục Quân Hoa Kỳ tuyển mộ các binh sĩ tình nguyện và tổ chức cuộc huấn luyện cho các cảm tử quân này. Trong khi đó bộ phận tình báo tiếp tục thực hiện những phi vụ chụp không ảnh vùng Sơn Tây bằng phi cơ bay cao loại Lockheed SR-71 và phi cơ không người lái Buffalo Hunter. Các ảnh chụp được trong mùa hè cho thấy các hoạt động tại Sơn Tây giảm thiểu và đến mùa thu 1970 thì vắng vẻ. Trong khi đó, trại tù binh cách đó khoảng 26 km về phía Tây thì nhộn nhịp hơn.

GIAI ĐOẠN 3: HÀNH ĐỘNG

Lệnh thi hành được Bộ Tham Mưu Liên Quân chuẩn y và ban hành ngày 18 tháng 11 năm 1970. Về các cảm tử quân, sau thời gian huấn luyện, vào đêm 18 tháng 11 năm 1970 tất cả đội đặc nhiệm này được đưa lên vận tải cơ C-141. Từ giờ phút đó, các cảm tử quân không được mặc quân phục hay mang huy hiệu của đơn vị nào. Sau nhiều giờ trên máy bay, họ được thả xuống phi trường Thakhi, Thái Lan.

Ngày N sắp bắt đầu sau sáu tháng hoạch định và ba tháng tập dượt kỹ càng. Trước giờ xuất phát, các cảm tử quân mới được thông báo là cuộc đột kích bí mật này có mục tiêu cứu tù binh Mỹ bị giam tại nhà tù Sơn Tây Bắc Việt. Do đó đội đặc nhiệm sẽ tiến hành cuộc tấn công chớp nhoáng và táo bạo.

Theo kế hoạch, Lực Lượng Đặc Nhiệm lên các trực thăng HH-53 tại căn cứ Không Quân Udom ở Thái Lan, bay qua đất Lào vào Sơn Tây. Trong khi đó các phi cơ chiến đấu Không Quân, Hải Quân Mỹ sẽ mở cuộc không tập đánh lạc hướng trên không phận Bắc Việt. Đúng 2 giờ 18 phút sáng ngày 21 tháng 11, Trung Tá Không Quân Hebert Zehnder đáp trực thăng chở toán xung kích của Đại Úy Richard J. Dick Meadows xuống ngay sân nhà tù Sơn Tây.

Mặc dù đã tập dượt kỹ càng, chiếc trực thăng chở toán quân này cũng bị vướng một dây phơi quần áo, cánh quạt đụng phải một thân cây làm máy bay rớt xuống đất trong sự va chạm dữ dội. Theo lời kể của Đại Úy Meadows thì chỉ có một trung sĩ bị bình chữa lửa đập vào chân làm bể mắt cá, còn Trung Úy George Petrie thì bị té văng ra khỏi trực thăng, ngoài ra không có ai bị thương.

Dưới quyền điều động của trưởng toán Meadows, tất cả nhảy ra khỏi trực thăng và tác xạ triệt hạ các lính canh Cộng Sản Bắc Việt. Đại Úy Meadows khom người phóng mình vào trại, vừa nói qua loa phóng thanh cầm tay: "Chúng tôi là quân nhân Mỹ đến cứu các anh, tất cả nằm xuống tránh đạn. Chúng tôi sẽ vào ngay." Thế nhưng không một ai trả lời.

Trong khi đó, Trung Tá Không Quân John A. Allison hạ trực thăng của ông chở toán an ninh và chỉ huy của Trung Tá Elliott P. Sudnor xuống bên ngoài tường nhà đúng kế hoạch. Thượng Sĩ Herman Spencer dùng chất nổ phá thủng bức tường. Họ tiếp tay với toán xung kích đang chiến đấu tiến vào nhà tù, lục soát các tòa nhà. Trung Sĩ Tyrone J. Adderly, thuộc toán chỉ huy dưới đất đã dùng súng phóng lựu M-79 để tiêu diệt một vị trí súng máy nguy hiểm nhất của địch.

Cùng vào thời gian này, Trung Tá Không Quân Warren A. Britton, chở toán binh sĩ do Đại Tá Arthur Simons chỉ huy, hạ cánh xuống tọa độ được ấn định. Thế nhưng cả toán lại bị thả lộn xuống một trường trung học cách trại tù chừng 500 mét. Trường học này đã được quân Bắc Việt sử dụng làm trại lính.

Nhận thấy cảnh trí lạ hoắc, toán của Đại Tá Simons biết là sai địa điểm, nhưng trực thăng đã bay lên cao nên cả toán phải quyết tử chiến. Quân Cộng Sản Bắc Việt túa ra và tất cả đã hoảng hốt trong quần xà lỏn cùng áo thun. Đại Úy Wather lập tức bắn gục 3 Cộng quân. Trong khi đó, Đại Tá Simons vừa nhảy xuống giao thông hào thì đã đụng một bộ đội Cộng Sản với vẻ mặt ngơ ngác kinh ngoài. Trong tích tắc, hắn bị bắn hạ tại chỗ. Trong vòng 5 đến 10 phút, cả toán của Đại Tá Simons đã tiêu diệt trên 100 bộ đội Bắc Việt. Ngay sau đó, phi công trực thăng biết là thả lầm nên đã hạ xuống đón và đổ toán này xuống trại tù Sơn Tây.

Bên trong nhà tù Sơn Tây, các binh sĩ thuộc quyền chỉ huy của Đại Úy Meadows và Trung Tá Sydnor đã tiêu diệt trên 50 lính gác Cộng quân trong khi lục soát nhà tù và tìm các đường hầm. Nhưng họ không tìm thấy một tù binh Hoa Kỳ nào. Cảm tử quân được rút lui sau 20 phút trên mặt đất. Và hành động cuối cùng của Đại Tá Medows là tiêu hủy chiếc trực thăng bị hư hại (lúc đầu khi đáp xuống) trước khi rút lui.

Sau khi cuộc hành quân kết thúc, bộ phận tình báo Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ mới biết rõ là toán tù binh Mỹ đã được di chuyển đi nơi khác khỏi Sơn Tây từ hồi tháng Bảy, vì miền này bị lụt. Một nghi vấn được nhiều nhà quân sự và quân sử Hoa Kỳ nêu lên là tại sao Đô Đốc Moorer (người thay thế Đại Tướng Wheeler trong chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân) là ngày 19 tháng 11 năm 1970 (ngày N-2) chính ông đã được báo là tù binh đã di chuyển trại mà vẫn ra lệnh xuất phát cuộc đột kích.

Về kết quả, theo nhận định của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, thì mặc dù tình báo cấp cao đã thiếu sót theo dõi và thu thập tin này, nhưng cuộc đột kích được coi là hoàn toàn không vô ích. Một sự kiện được các quan sát viên ghi nhận là sau trận đột kích bất thành, Hà Nội biết rằng Hoa Kỳ rất quan tâm đến an toàn của tù binh Mỹ nên buộc lòng đã phải thay đổi cách đối xử với các quân nhân Hoa Kỳ bị giam giữ tại miền Bắc để tìm sự thương thảo tại hội đàm Paris. //

https://docs.google.com/file/d/1Xw7V6Jryn3nSimP4eg3EGYolPE__iF97iFDECBJUYYM-tcqkDVEdlwuHJkOU/edit?pli=1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét