Tác giả: Hồ Sĩ Quý *
02/4/2023
Tóm tắt: Singapore là hiện tượng kỳ diệu của thế giới ở
thế kỷ 20. Từ một thị trấn nghèo qua 3 thập niên với ý chí quyết đoán của người
đứng đầu là Lý Quang Diệu, Singapore đã trở thành “thiên đường của chủ nghĩa tư
bản”. Năm 2014, GNP đầu người của nước này là 72.000 USD tính theo PPP. Xã hội
thịnh vượng. Môi trường trong lành. Quan chức liêm khiết. Cả thế giới muốn bắt
chước, nhưng có nhiều điều không thể bắt chước và cũng có nhiều điều người ta
không muốn bắt chước. Bởi Singapore phát triển trong những nghịch lý không dễ
lý giải, mà nghịch lý lớn nhất là “cất cánh” rồi “hóa rồng” trong môi trường ít
nhiều độc đoán, độc tài. Tự do, dân chủ bị quản lý chặt. Nhà nước can thiệp sâu
vào đời sống, thậm chí đời sống riêng tư của người dân. Kinh tế thị trường sôi
động nhưng “bàn tay vô hình” của nó bị điều khiển bởi nhà nước. Tôn vinh đặc
thù châu Á nhưng rất gần với phương Tây. Rất chú ý đến tính xã hội của sự phát
triển nhưng lại xây dựng thành công một kiểu xã hội tư bản chủ nghĩa.
Ý chí cá nhân của Lý Quang Diệu được coi là nguyên nhân quan
trọng làm nên sự thành công của Singapore. Và đó cũng lại là nguyên nhân khiến
Singapore hiện ra không chỉ với toàn những điều tốt đẹp. Nhưng sự thịnh vượng
đã làm mờ những điều không mấy nhân đạo trong sự phát triển của Singapore, che
đậy và xóa đi các “vết đen” lịch sử.
I.
Tháng 3/2015, khi ông Lý Quang Diệu nằm xuống, cả thế giới
nói về ông, người đã biến Singapore từ một làng chài nghèo đói vào giữa những
năm 1960 thành một thương cảng sầm uất nhất thế giới sau 30 năm, một đảo quốc xứng
đáng là “viên ngọc quý của sự thịnh vượng”. Bên cạnh những lời ngợi ca tưởng chừng
đã vượt ra khỏi khả năng của ngôn từ, “người Cha sáng lập Singapore” vẫn phải
nhận không ít những phê phán từ nhẹ nhàng tới gay gắt. Khắp nơi, đặc biệt ở các
nước đang phát triển, tranh cãi về ông dường như lại tăng thêm. Mặc dù, với
Singapore, “biểu tượng thần kỳ của sự phát triển”, hầu hết các các quốc gia ít
nhiều đều muốn bắt chước.[1] Nhưng ngay cả sự bắt chước cũng đã
chứa trong nó điều không mấy khả thi – nửa thế kỷ nay, Singapore gắn liền với
tên tuổi của Lý Quang Diệu. Đó thực sự là hai trang của một tờ giấy. Và, không
thể có trang này mà lại thiếu trang kia. Đây chính là một nghịch lý.
Đảo quốc này quá nhỏ, dân số chỉ 5 triệu người, không có tài
nguyên, “một trái tim không có cơ thể” (a heart without a body), chính Lý Quang
Diệu đã nói như vậy.[2] Trái tim này phải cố gắng biến thế
giới thành cơ thể của nó. Và điều “không tưởng” đó Singapore đã làm được. Đây
là nghịch lý thứ hai.
Lý Quang Diệu được nhiều học giả coi là đi theo khuynh hướng
xã hội chủ nghĩa. Thời trẻ ông đã từng bắt tay với phong trào cộng sản và trong
cuộc đời mình, không ít lần ông đã kịch liệt phê phán chủ nghĩa tư bản. Nhưng rốt
cuộc, ông lại là người hết lòng xây dựng chủ nghĩa tư bản. Singapore của ông là
tấm gương rực rỡ cho sự thành công của một “thiên đường tư bản chủ nghĩa”, “chủ
nghĩa tư bản sạch” (Clean Capitalism, Capitalist Paradise),[3] một chủ nghĩa tư bản chẳng liên quan
gì đến khái niệm của Max Weber. Đây là nghịch lý thứ ba.
Lý Quang Diệu tin tưởng tuyệt đối vào kinh tế thị trường.
Ông từng giảng giải “đừng bao giờ tin rằng có thể đi ngược lại sức mạnh của thị
trường” (“Never believe you can go against market forces. If you try, then
nothing will happen”)[4] nhưng Singapore của ông lại là điển
hình cho sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường, cả ở tầm vĩ mô đến
những hiện tượng vi mô. Rất có thể quan hệ nhà nước với thị trường ở
Singapore những thập niên qua đã vượt quá cả lý thuyết về kinh tế tự do của
Friedrich Hayek hay của Keynes. Đây là nghịch lý thứ tư.
Lý Quang Diệu là người có cảm tình với dân chủ. Thời trẻ,
dân chủ là tiếng gọi lý tưởng của ông. Ông hiểu rõ giá trị dân chủ. Nhưng
Singapore của ông là một thứ “chủ nghĩa tư bản chuyên chế” (Authoritarian
Capitalism – trong bài chúng tôi sẽ dẫn ra những bằng chứng thật khó phản bác).
Còn ông, dù được ngưỡng mộ đến mấy người ta vẫn phải xếp ông vào hàng những
lãnh tụ “có bàn tay sắt”, quản lý theo phương thức toàn trị, độc tài, dù đó chỉ
là một kiểu “chuyên chế mềm” (Soft Authoritarianism).[5] Lý lẽ đáng kể nhất của ông là, dân
chủ, tự nó đã bất hợp lý ngay từ giả định đầu tiên rằng, tất cả mọi người đều
bình đẳng và có đóng góp ngang nhau vào cái tốt đẹp chung (“The weakness of
democracy is that the assumption that all men are equal and capable of equal
contribution to the common good is flawed”).[6] Đây là nghịch lý thứ năm.
Lý Quang Diệu nhiệt thành tin tưởng vào giá trị về trách nhiệm
xã hội, một giá trị cốt lõi của Khổng giáo. Singapore hiện đại được ông xây dựng
theo mô hình của những giá trị châu Á. Trong mắt ông, giá trị phương Tây khác
biệt đáng kể nên khó phù hợp. Nhưng Singapore ngày nay, hơn bất cứ một quốc gia
châu Á nào khác, kể cả Nhật Bản, lại rất giống phương Tây. Đây là nghịch lý thứ
sáu.
Về phương diện cá nhân, Lý Quang Diệu được tiếng là người giản
dị đến xuề xòa, thực tế đến thực dụng, cởi mở đến phóng khoáng, thông minh đến
thông thái, kiên quyết đến không hề biết nhân nhượng. Nhưng ông lại cũng là người
“không thể làm bất cứ việc gì cẩu thả, từ việc mang một đôi giày bóng lộn đến
ra một quyết định quan trọng”; không trói mình vào bất cứ vào lý luận nào hay lời
khuyên nào, kể cả Macchiaveli và Khổng giáo, hai học thuyết mà ông rất tâm đắc.
Ông lảng tránh tranh cãi đúng sai về các chủ thuyết, mà chỉ muốn tìm giải
pháp thực tế cho những bài toán phát triển.[7] Đánh giá về ông, tờ tạp chí nổi tiếng
“Life” ngay từ 1965 đã nhận xét, mà đến nay vẫn rất nhiều người dẫn lại rằng
“Lý là người xuất sắc nhất, dù có đôi chút hung bạo” (“Lee is the most
brilliant man around, albeit just a bit of a thug”).[8] Đó cũng là một nghịch lý của
Singapore.
Vấn đề là ở chỗ, Singapore với 31 năm Lý Quang Diệu giữ
cương vị Thủ tướng đã phát triển ngoạn mục trong những nghịch lý không dễ lý giải.
Phẩm cách cá nhân của Lý Quang Diệu chắc chắn là nguyên nhân vô cùng quan trọng,
nếu không muốn nói là nguyên nhân quyết định. Cùng một mô hình với Hàn Quốc và
Đài Loan, nghịch lý lớn nhất của những nước này là đều tăng trưởng rồi “cất
cánh” trong điều kiện ít nhiều độc đoán, độc tài. Một vài thế hệ đã trở thành vật
hy sinh cho sự phát triển. Hàn Quốc “cất cánh” trong lao động khổ sai đầy nước
mắt và có cả máu. Đài Loan “cất cánh” khi lãnh tụ giật mình về công tội của
mình. Singapore được tiếng là sự trả giá để “cất cánh” dễ “chấp nhận” nhất. Sự
thịnh vượng thực tế đã che mờ các “vết đen” lịch sử. Nhưng thực ra những hành
vi độc đoán, toàn trị và thiếu cởi mở như những chứng cứ như chúng tôi sẽ trình
bày trong những phần dưới đây, cũng thật khó “để rơi vào quên lãng” nhất là đối
với những người trong cuộc.
II.
Vào những năm 1960, GDP thực tế của Singapore dưới 500
USD/người. Lúc đó Singapore rất nghèo, đang loay hoay tìm đường phát triển sau
khi độc lập và sau cú sốc tách khỏi Malaysia. Sau hai thập niên, năm 1985 GDP của
Singapore là 10.811 USD/người, nghĩa là đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo
(960 USD/người theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc, hoặc 875 USD/người theo tiêu
chuẩn của WB). Không rơi vào cái bẫy thu nhập trung bình và dừng lại ở đó,
Singapore tiếp tục phát triển và trở thành một nước công nghiệp hóa mới, một
trong 4 con hổ châu Á – điều kỳ diệu của thế kỷ 20. Đến năm 2003, GDP (tính
theo PPP) Singapore là 29.663 USD đầu người năm; Chỉ số phát triển con người
(HDI) 2005 là 0,925, xếp hạng 25/177 nước. Năm 2007, GDP (tính theo PPP)
Singapore là 35.163 USD đầu người năm; Chỉ số phát triển con người 2009 là
0,944, xếp hạng 23/182 nước. Năm 2011, GNP (tính theo PPP) Singapore là 52.569
USD đầu người năm; Chỉ số phát triển con người là 0,866 xếp hạng 26/183 nước.
Năm 2013, GNP (tính theo PPP) Singapore là 52.613 USD đầu người năm; Chỉ số
phát triển con người là 0,895 xếp hạng 18/186 nước. Năm 2014, GNP (tính theo
PPP) Singapore là 72.371 USD đầu người năm; Chỉ số phát triển con người là
0,901 xếp hạng 9/186 nước.[9]
Biểu đồ về Singapore thời Lý Quang Diệu của tạp chí “The
Economist” 22/3/2015
Hệ thống cai trị ở Singapore được xem là minh bạch về chính
trị và ít tham nhũng nhất trên thế giới. Trong xếp hạng hàng năm của Tổ chức
Minh bạch quốc tế (Transparency International), Singapore vẫn thường nằm trong
tốp các nước ít tham nhũng nhất. Vào năm 2005, Singapore với chỉ số CPI
(Corruption Perceptions Index) là 9,4 xếp thứ 5 trong nhóm nước trong sạch nhất,
chỉ sau Iceland, Phần Lan, New Zealand và Đan Mạch. Năm 2012, với chỉ số CPI
87, Singapore là quốc gia minh bạch xếp hạng thứ 5 của thế giới. Năm 2014, điểm
sáng duy nhất của khu vực Đông Á vẫn là Singapore với chỉ số CPI là 84 (dù có
thấp hơn mức CPI của chính Singapore năm 2011 và 2012), nhưng chỉ đứng sau 6 nước
là Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, New Zealand và Đan Mạch; Singapore vẫn
là quốc gia minh bạch hàng đầu thế giới.[10]
Để có vị trí này, Singapore đã trải qua một quá trình đấu
tranh nghiêm khắc ngay từ khi Lý Quang Diệu mới lên nắm quyền. Ông Lý hiểu sâu
sắc hơn bất cứ ai về sự nguy hiểm của tham nhũng, không chống được tham nhũng
thì mọi mục tiêu phát triển trở thành vô nghĩa. Bàn tay sắt của ông đã được hỗ
trợ bằng một cơ chế hiệu quả. Khi ông qua đời, mạng corruption.net đánh
giá, trong số các nhà lãnh đạo thành công và không thành công, không ai có liều
thuốc chống tham nhũng tốt hơn Lý Quang Diệu.[11]
Trong ba yếu tố tạo nên tham nhũng, vào những năm 1960,
Singapore chưa thể làm gì với thực trạng lương bổng vì lúc đó đất nước vẫn còn
nghèo. Vì vậy, chính phủ chọn tấn công vào hai yếu tố tạo tham nhũng còn lại:
giảm thiểu cơ hội tham nhũng và tăng cường hình phạt. Luật chống tham nhũng mới
ra đời với 32 phần, thay bộ luật cũ năm 1937 với 12 phần. Có một số sửa đổi
quan trọng như án tù tăng lên, người nhận hối lộ phải trả lại hết tiền đã nhận.
Văn phòng điều tra tham nhũng (CPIB) được tăng quyền hạn, với khả năng điều tra
“mọi tài khoản ngân hàng” của những ai bị nghi có hành vi phi pháp. Một người
có thể bị khép tội tham nhũng ngay cả khi người đó chưa nhận tiền hối lộ, nếu ý
định phạm pháp đã đủ để khép tội. Công dân Singapore phạm tội nhận hối lộ ở nước
ngoài cũng bị xử như phạm pháp trong nước. Cả khi bị cáo qua đời, tòa án cũng
có quyền trưng thu tài sản tham nhũng.
Mãi tới thập niên 1980, khi kinh tế đã phát triển, Singapore
mới đủ khả năng làm nốt phần còn lại trong chiến lược chống tham nhũng là tăng
lương cho công chức. Tháng 3/1985, Thủ tướng Lý Quang Diệu tuyên bố các lãnh đạo
chính trị cần được trả lương thật cao để “dưỡng liêm” bảo đảm cho chính quyền
trong sạch. Ông nói cách hay nhất chống tham nhũng là “đi cùng thị trường”,
thay cho thói đạo đức giả đã tạo nên tham nhũng.[12]
Theo GS. Jon S.T. Quah, khoa chính trị học Đại học Quốc gia
Singapore, kinh nghiệm của Singapore không dễ lặp lại ở các nước khác vì hoàn cảnh
đặc thù và vì những chi phí chính trị và kinh tế của việc trả lương cao. Tuy
nhiên, có 6 bài học có thể tham khảo được. Đó là:
Bộ máy lãnh đạo phải thực tâm chống tham nhũng và trừng phạt
bất cứ ai có hành vi tai tiếng.
Các biện pháp chống tham nhũng phải đầy đủ, không có lỗ hổng
và thường xuyên được xem xét lại để thay đổi, nếu cần thiết.
Cơ quan chống tham nhũng phải trong sạch. Không nhất thiết
phải có quá nhiều nhân viên, và bất kỳ thanh tra nào tham nhũng cũng phải bị trừng
phạt và đuổi ra khỏi ngành.
Cơ quan chống tham nhũng phải tách khỏi bộ máy cảnh sát.
Để giảm cơ hội tham nhũng tại các ngành dễ sa ngã như hải
quan, thuế vụ, công an giao thông, các cơ quan này phải thường xuyên kiểm tra
và thay đổi qui định làm việc.
Động cơ tham nhũng trong khối nhân viên nhà nước và quan chức
có thể giảm bớt nếu lương và phụ cấp cho họ có tính cạnh tranh với khu vực tư
nhân.
Đảng Nhân dân Hành động (PAP – People’s Action Party; 人民 行动
党)
cầm quyền không phải là đảng duy nhất tồn tại ở Singapore, nhưng là đảng duy nhất
lãnh đạo và có vị trí được coi là không thể thay thế đối với sự phát triển của
đảo quốc này, ít nhất là cho đến nay. Đảng PAP đã có nhiều biện pháp tự do hóa
nền kinh tế và thu hút vốn nước ngoài, thực hiện nhanh chóng công cuộc cải biến
kinh tế, xã hội và nâng cao chất lượng sống, nhưng cũng bị coi là toàn trị và
không kém độc đoán.
Vai trò điều tiết vĩ mô của chính phủ thể hiện rộng khắp
trong mọi mặt của đời sống kinh tế, tạo nên một ví dụ kinh điển về mối quan hệ
tiềm ẩn khả năng tích cực giữa nhà nước và thị trường, giữa bàn tay cứng rắn của
pháp luật với đời sống tự do của dân chúng, giữa trách nhiệm cá nhân và kỷ
cương xã hội, giữa tính minh bạch và phát triển kinh tế: chính phủ lập kế hoạch
dự thảo ngân sách cho mọi hoạt động từ tài chính quốc tế cho đến thu gom rác;
chính phủ sở hữu, kiểm soát, điều tiết hoặc phân bố đất đai lao động và nguồn vốn;
chính phủ ấn định hoặc tác động đối với nhiều loại giá cả làm cơ sở cho các nhà
đầu tư tư nhân tính toán kinh doanh và quyết định đầu tư.
Sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế đã ảnh hưởng
tích cực không chỉ đối với lợi ích của doanh nghiệp tư nhân, mà còn đối với
phúc lợi chung của nhân dân. Ngoài việc tạo ra việc làm trong các khu vực tư
nhân và nhà nước, chính phủ còn cung cấp nhà ở hỗ trợ, giáo dục và y tế và các
dịch vụ giải trí cũng như vận tải công cộng. Chính phủ quyết định mức tăng
lương hàng năm và dự định mức phụ cấp ngoài lương tối thiểu trong các khu vực
nhà nước và tư nhân. Chính phủ còn quản lý quỹ tiết kiệm hưu trí thông qua
Central Provident Fund và Post Office Bank, tạo điều kiện cho cá nhân có các cổ
phần tại các doanh nghiệp.
Như đã nói ở trên, những sự thay đổi của Singapore gắn liền
với tên tuổi Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore giai đoạn 1959-1990, người đã
dùng quyền lực của mình tác động vào mọi khía cạnh, mọi hoạt động, thậm chí mọi
ngóc ngách trong cuộc sống của người dân nước này. Điều này đối với một số người
dân Singapore là bình thường, một số khác thấy tự do của mình bị vi phạm. Và khi
Singapore “hóa rồng”, tất cả những can thiệp phi lý, tàn nhẫn, vượt quá thẩm
quyền của Lý Quang Diệu và chính thể Singapore lại trở thành công lao.
Nhứng năm 1960 và 1970, để hạn chế gia tăng dân số, ở
Singapore, phụ nữ sinh con thứ ba trở đi sẽ phải hưởng thời gian nghỉ thai sản
ngắn hơn, đồng thời phải chi trả mức viện phí cao hơn và quyền giảm trừ thuế của
họ cũng bị ảnh hưởng. Đặc biệt, chính phủ Singapore thưởng 5.000 SGD cho bất cứ
cặp vợ chồng nào chấp nhận triệt sản sau đứa con thứ hai. Họ cũng sẽ được ưu
tiên đăng ký mua nhà ở giá thấp và con cái của họ được hưởng các ưu đãi khác ở
nhà trường. Những người Kito giáo không chấp nhận nổi cách cư xử này. Nhưng mọi
tiếng nói phản đối đều vô hiệu. Năm 1983, Lý Quang Diệu thay đổi quan niệm, ông
tuyên bố phụ nữ trí thức nên có 3 đến 4 con và kêu gọi nam giới nên kết hôn với
phụ nữ trí thức. Tuyên bố này gây tranh cãi lớn trong toàn xã hội. Ngay cả những
phụ nữ là trí thức cũng cảm thấy bị xúc phạm và họ đã phản đối kịch liệt.
Về quản lý trật tự xã hội, những hành vi như xả rác, hút thuốc
hay khạc nhổ nơi công cộng đều bị phạt tiền, thậm chí bị đánh roi, kể cả đối với
người nước ngoài. Năm 1994, hình phạt đánh roi dành cho Michael Fay, một công
dân Mỹ đã làm cả thổng thống Clinton và nhiều thượng nghị sỹ Mỹ phải lên tiếng.
Một đạo luật được Lý Quang Diệu ban hành đã bắt buộc người
lao động phải tiết kiệm 1/4 số tiền lương mỗi tháng. Khoản tiền này sẽ chỉ được
rút ra khi người lao động 55 tuổi. Chính phủ quản lý sẽ dùng số tiền này để phục
vụ cộng đồng.
Ở Singapore, còn có nhiều điều luật, quy tắc, quy định… mà ở
nước khác thì có thể bị kết tội vi phạm quyền con người, quyền công dân. Dân
chúng hài hước đùa rằng, với các nước khác, điều gì không cấm thì có thể làm,
riêng với Singapore, điều gì không cấm thì buộc phải làm; còn điều gì đã cấm
thì chỉ phải nhịn đến khi đi du lịch nước ngoài.[13]
Đánh giá về Lý Quang Diệu, Tom Plate, nhà báo nổi tiếng của
tờ Los Angeles Time cho rằng:
“Thế kỷ 20 đã có không biết bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu
linh hồn bị hủy hoại chỉ vì một lãnh tụ có thái độ mù quáng tôn thờ một chân lý
duy nhất. Lý Quang Diệu không muốn trở thành nhà lãnh đạo kiểu đó. Thực tế ông
bị quyến rũ bởi vũ điệu của những ý tưởng thông minh chứ không phải những bước
nhảy ngớ ngẩn, vụng về của quỷ dữ. Ông cũng hoàn toàn không phải là một kẻ lập
dị như Pol Pot hay một tiểu Hitler nông nổi”… “Lý Quang Diệu giống như Muhamad
Ali vĩ đại, di chuyển nhẹ như bướm và đốt đau như ong (bạn không nên ghi tên
mình vào danh sách đen của ông, vì nếu thế bạn sẽ bị ông dồn vào góc tường, kiện
bạn đến cùng và bạn sẽ xong đời)”… “Singapore hẳn nhiên không phải là thiên đường
đối với kẻ buôn bán ma túy, cũng nhất định không phải là thiên đường trên mặt đất
đối với những người phản đối chính phủ và đảng cầm quyền. Trong những nghề có đặc
quyền riêng mà bạn thấy đáng tự hào ở phương Tây thì luật sư bào chữa các vụ án
hình sự ở Singapore của Lý Quang Diệu ít có quyền lực hơn nhiều. Những người ủng
hộ tu chính án thứ nhất hẳn sẽ không thấy có niềm vui của xứ Utopia khi phải đối
mặt với đường giới hạn tinh vi nhưng rất nghiêm ngặt dành cho giới truyền thông
ở đây”.[14]
Toàn bộ những dòng này, Lý Quang Diệu đã đọc và sửa trước
khi xuất bản. Nghĩa là ông thừa nhận và chỉ cần như thế người đọc cũng có thể
hiểu và suy diễn, kiểm chứng thêm nhiều điều. Chúng tôi đánh giá cao Tom Plate;
qua những dòng này, Tom đã thể hiện mình là cây bút “có hạng”, khôn khéo không
để cho ngòi bút của mình mất đi tính khách quan, nhưng cũng không vì thế mà làm
hỏng điều căn bản nhất – ngồi lại với Lý Quang Diệu, truy vấn ông về tất cả những
gì đã làm nên điều kỳ diệu Singapore. Khó mà phủ nhận được, với Lý Quang Diệu
và Đảng Nhân dân hành động, Singapore không có chỗ cho những người đối lập. Nếu
ai đó bị đưa vào danh sách đen, người đó sẽ bị “dồn vào góc tường, và sẽ xong đời”.
Chính thể này không nhẹ tay với án hình sự và công nhiên hạn chế quyền bào chữa
của luật sư. Có ranh giới rất tinh vi nhưng rất nghiêm ngặt dành cho giới truyền
thông… Có lẽ, chỉ với chừng ấy nội dung, bất cứ nước nào ngày nay nếu chủ
trương như vậy cũng sẽ bị xếp vào dạng có vấn đề về nhân quyền. Nhưng Singapore
là đảo quốc nhỏ bé, thực ra là một thành phố, cũng là thành phố nhỏ nếu so với
Bangkok, Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh, nên tất cả những gì cộm lên đều đã
bị xóa mờ bởi một Singapore giàu có, trong lành và phát triển.
Trên thực tế, Lý Quang Diệu đã bị chỉ trích nhiều vì đã áp dụng
những biện pháp cứng rắn đàn áp phe đối lập, cản trở tự do ngôn luận, cấm mít
tinh, biểu tình (bằng chính giấy phép của cảnh sát), hạn chế các ấn phẩm không
vừa ý chính quyền và sử dụng các luật lệ về tội phỉ báng để cố tình và bằng mọi
cách đẩy những đối thủ chính trị vào tình trạng phá sản. Về những hành vi này,
Devan Nair, Tổng thống Singapore từ năm 1981 (đến năm 1985 từ chức vì bất đồng
quan điểm với Lý Quang Diệu, năm 1995 ông định cư tại Canada) nhận xét rằng,
thủ đoạn của Lý Quang Diệu là khởi kiện đối thủ, gây áp lực với tòa án và các
văn phòng luật sư, làm cho đối thủ không gỡ được để thoát ra khỏi các thủ tục
và chi phí tố tụng, cho đến khi họ phá sản hay thân bại danh liệt. Làm như vậy
Lý đã tìm cách thủ tiêu các quyền chính trị của đối thủ. Devan Nair cho rằng,
càng về sau Lý Quang Diệu “ngày càng trở thành loại người tự cho mình biết đủ
và biết đúng mọi sự”. Cũng giống như các nhà độc tài khác, ông Lý cũng như bị
vây quanh bởi “những kẻ bù nhìn”. Devan Nair đưa ra những nhận xét này vào năm
1999. Thậm chí ông còn nói “Singapore hôm nay là nơi vô hồn, hệ tư tưởng của nó
chỉ là vật chất mà thôi” (Singapore today is a soulless place whose only
ideology is materialism). Nổi khùng trước những nhận xét này, Lý Quang Diệu lại
đâm đơn kiện Devan Nair.[15]
Đã có trường hợp, sau khi toà kháng án bác bỏ phán quyết có
lợi cho Lý Quang Diệu, chính phủ bèn hủy bỏ quyền kháng án. Suốt trong thời
gian đảm nhiệm chức thủ tướng từ 1965 đến 1990, Lý Quang Diệu đã
bỏ tù Tạ Thái Bảo (Chia Thye Poh), một cựu dân biểu quốc hội thuộc đảng đối lập Barisan
Socialis, trong 22 năm mà không xét xử, chiếu theo Luật An ninh Nội chính,
ông này chỉ được trả tự do vào năm 1989. Để có thể dành quyền hạn tuyệt đối
cho các thẩm phán, Lý Quang Diệu đã huỷ bỏ luật “Xét xử có bồi thẩm đoàn”.[16]
Theo Thayil George, cố vấn biên tập của tờ The New
Indian Express, tác giả chuyên về chính trị và tiểu sử chính khách; trong cuốn
“Singapore của Lý Quang Diệu”, nhận xét rằng, để quản lý Singapore, Lý Quang Diệu
đã không ngần ngại sử dụng các thủ đoạn đối với phe đối lập và cả đối với dân
chúng. Trong việc tiêu diệt đối thủ của mình, chiến thuật của ông có thể so
sánh được với việc dùng một quả bom nguyên tử để tấn công một con muỗi. Đầu năm
1963 trong một cuộc bầu cử, ông đã sử dụng Đạo luật An ninh nội bộ Anh để bỏ tù
100 thành viên chủ chốt của nhóm thân cộng Barisan Sosialis cánh tả, vốn tách
ra từ đảng PAP. Những người còn lại sau bầu cử chỉ được chọn vào các vị trí
hành chính không có quyền lực chính trị thực sự.[17]
Sau cuộc bầu cử năm 1997, ứng cử viên Công đảng Tang Liang
Hong phải đối mặt với vụ kiện bởi 11 thành viên đảng PAP, bao gồm cả cựu Thủ tướng
Goh và Bộ trưởng cao cấp Lý Quang Diệu. Ông Tang bị khép tội là đã phỉ báng
Kitô giáo và Hồi giáo trong quá trình vận động tranh cử.[18]
Joshua Benjamin Jeyaretnam, nhà lãnh đạo của Công đảng
từ năm 1971 đến năm 2001, cũng phải đối mặt với một loạt tội phỉ báng. Năm
1981, ông trở thành chính trị gia đối lập đầu tiên của Singapore trong Quốc
hội, khi ông đánh bại ứng cử viên đảng PAP. Ông tái đắc cử năm 1984, nhưng bị mất
ghế Quốc hội năm 1986 khi bị quy tội một cách bất công là chiếm quỹ của đảng (tội
danh này sau đó được lật ngược bởi Hội đồng Cơ mật của Vương quốc
Anh). Ông trở lại Quốc hội sau cuộc tổng tuyển cử năm 1997. Tuy
nhiên, ông đã bị tước ghế nghị sỹ năm 2001 khi bị phá sản vì không thanh toán kịp
cho các nhà lãnh đạo đảng PAP về vụ kiện.[19]
Chee Soon Juan, lãnh đạo Đảng Dân chủ Singapore (SDP),
giải thưởng Dân chủ năm 2003 và Tự do năm 2011, đã bị bắt
và bỏ tù nhiều lần vì các hoạt động tổ chức biểu tình và các phát biểu công
khai về chính trị. Ông bị kiện vì tội phỉ báng đảng PAP và vì thế đã
bị phá sản vào năm 2006 khi không bồi thường nổi cho Lý Quang Diệu và Goh
Chok Tong, mặc dù vợ chồng ông đã phải bán ngôi nhà để trả chi phí vụ kiện.
Theo Chee, Ở Singapore, chính phủ kiểm soát tất cả và đó là lý do gây sợ hãi
trong dân chúng.[20]
Tháng 3/2000, Uri Gordon, giảng viên Đại học Loughborough,
Anh, và là nghiên cứu viên Viện Khoa học Chính trị, Đại học Tel Aviv, Israel đã
công bố một nghiên cứu so sánh giữa những phương thức, biện pháp và thủ đoạn của
nền chính trị độc tài, được mô tả trong các tác phẩm của Niccolò Machiavelli và
phương thức độc tài thực tế của Lý Quang Diệu đối với đất nước Singapore.
Mặc dù giữa nước Ý thế kỷ 16 và Singapore thế kỷ 20 là cách
nhau quá xa, nhưng những điều được phân tích trong tác phẩm của Niccolò
Machiavelli và phương thức lãnh đạo đất nước của Lý Quang Diệu lại có những điểm
tương đồng đến kỳ lạ. Được biết Lý Quang Diệu cũng rất mê Machiaveli và
đây chính là lý do để Uri Gordon so sánh Lý Quang Diệu với những “nguyên tắc
Machiaveli”.
Cần phải nói đôi điều về Machiaveli trước khi bàn đến sự so
sánh của Uri Gordon. Niccolò di Bernardo dei Machiavelli (1469-1527), ông tổ của
khoa học chính trị hiện đại, nhà ngoại giao, nhà triết học, “một nhân vật khổng
lồ của thời đại Phục hưng” (theo lời Friedrich Engels). Ông được biết đến với
các luận thuyết vô cùng sắc sảo nêu rõ bộ mặt của chủ nghĩa hiện thực chính trị
(trong tác phẩm The Prince) và bản chất của nền cộng hòa (trong tác phẩm Discourses
on Livy). Hai cuốn sách này cùng với cuốn History of Florence trở
thành mô hình kinh điển chỉ dẫn cho nhiều nhà cầm quyền và cho các phân tích
chính trị từ thế kỷ 16 đến nay. Theo Machiaveli, “Bậc quân vương phải biết học
hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của
cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể
chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy, và là sư tử để
dọa sói”.[21] Chính Lý Quang Diệu cũng có vẻ rất
tâm đắc với tư tưởng này, khi ông bình luận về Machiaveli rằng: “Giữa được yêu
thương và được sợ hãi, tôi luôn tin rằng Machiavelli đúng. Nếu không ai sợ tôi,
thì tôi chẳng có ý nghĩa gì” (“Between being loved and being feared, I have
always believed Machiavelli was right. If nobody is afraid of me, I’m
meaningless”).[22]
Nguyên tắc Machiaveli là nguyên tắc của nền chuyên chính tư
sản. Tất cả đều do ý chí, tâm hồn, hành động của con người quyết định. Nhà
chính trị mẫu mực là người có đầu óc phê bình mạnh bạo, có tư tưởng duy lý phi
tôn giáo, có lòng căm ghét bọn quý tộc ăn bám, và có khát vọng muốn xây dựng đất
nước (thời đó và đất nước mà Machiveli nói đến là Italia) thành một quốc gia thống
nhất, tự do, bình đẳng với một chính quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây dựng trật
tự mới. Theo Machiaveli, con người muốn xứng đáng là một con người phải tiến thẳng
vững vàng tới mục đích. Mục đích sẽ chứng minh tính đúng đắn của biện pháp.
Machiavelli cũng đưa ra vô số lời khuyên về những thủ đoạn mà các quân
vương nên áp dụng. Theo Machiavelli, đấng quân vương nào muốn thành công thì phải
học được cách gác lòng tốt sang một bên, việc có vận dụng nó hay không tùy thuộc
vào thời thế. Một quân vương, theo ông, cần biết tùy thời mà tốt hay
không tốt, nhưng phải làm ra vẻ mình có đầy đủ mọi đức tính. Điều quan trọng nhất
đối với quân vương là cần tránh bị khinh miệt và thù ghét. Machiavelli cũng thấy
rất rõ tầm quan trọng của “lòng dân”. “Không có chính sách nào toàn vẹn, cần phải
biết chọn lấy cái bất lợi nhỏ nhất” – tư tưởng này cũng được coi là một nguyên
tắc Machiaveli.[23]
Theo Uri Gordon, các quan điểm và hành động chính trị của Lý
Quang Diệu chính là sự giải thích một cách mạnh mẽ cho tính hiệu quả của các
“nguyên tắc Machiavelli”. Ông Lý đã chủ động vận dụng các nguyên tắc
Machiaveli, kể cả trong việc đưa ra luận thuyết “giá trị châu Á”.
Trên thực tế, đảng cầm quyền luôn thực thi các hành động
chính trị nhằm tìm mọi cách duy trì chế độ độc đoán, dập tắt các bất mãn và
nghiền nát các lực lượng đối lập. Singapore là một đất nước mà quyền con
người được xem là không cần thiết trong cuộc đua phát triển kinh tế. Dựa
vào lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản hiện đại Singapore, chính phủ cung cấp cho
các công dân của mình các loại phúc lợi với chi phí lấy từ lao động của họ. “Phe
đối lập được chờ sẵn các án tù chính trị. Chính phủ kiểm soát toàn bộ quá trình
bầu cử và tiến hành các vụ kiện đối với bất kỳ lời phát biểu nào chống lại
chính quyền. Mọi sự phê phán chính quyền đều biến thành hành động tự sát chính
trị. Ban cho dân một cuộc sống mà chính phủ có thể tự do kiểm soát, Lý và
các phụ tá của ông có thể được xem như là đệ tử thuần thành của nhà nước kiểu
Florentine”.[24]
Khi Singapore được cả thế giới nhìn nhận là một đảo quốc thịnh
vượng, an toàn và trong sạch, với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh
nhất trên thế giới, người ta thường chỉ rút ra kết luận rằng, nếu không có một
nhà lãnh đạo như ông Lý, Singapore sẽ phải mất nhiều thời gian hơn để đạt được
những thành tựu mà thế giới đang chứng kiến và muốn bắt chước. Theo chúng tôi,
nếu Uri Gordon không thiên kiến, thì đúng là Lý Quang Diệu đã một lần nữa chứng
minh cho quan điểm chuyên chính cực đoan tư bản chủ nghĩa – Mục đích có thể biện
minh cho biện pháp, dù biện pháp ấy chẳng hề chính đáng chút nào.
Kết luận
Kể từ nền dân chủ Athens, loài người đã 2500 năm đi theo con
đường dân chủ tự do với lịch sử đầy máu và nước mắt. Càng ngày, các dân tộc
càng nhận thấy “nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là
đòi hỏi khách quan của xã hội loài người”. Ở Việt Nam, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã mạnh mẽ khẳng định điều này.[25] Dân chủ, bản thân nó có thể tạo ra
nguồn lực cho sự phát triển. Dân chủ trong phát triển là phương thức hữu hiệu
nhất để tránh phải trả giá. Dân chủ có khả năng đem lại hạnh phúc hợp lý cho
các xã hội, cho từng con người, từ lãnh tụ tới người dân. Ngày nay không lý lẽ
nào có thể biện minh nổi cho sự phát triển mà phải sự hy sinh con người, dù đó
là một cá nhân, một cộng đồng hay một thế hệ. Hàn Quốc, Đài Loan ngày nay là
các xã hội có trình độ dân chủ cao của châu Á. Nghịch lý Singapore có thể không
dễ lý giải, nhưng cũng không phải là bằng chứng cho sự đi ngược lại xu thế tự
do dân chủ.
* GS.TS., Nguyên trưởng Viện Thông tin
Khoa học Xã hội, Viện Hà lâm Khoa học xã hội Việt Nam. hosiquy.thongtin@gmail.com. Bài
đã xuất bản lần đầu trong “Khoa học xã hội Việt Nam” số 7 (92) 2015. tr. 47-56.
[1] Xem: John Burton, Peter Montagnon, Kevin Brown and
Jeremy Grant (2015). Lee Kuan Yew, Singapore’s founding father, 1923-2015 http://www.ft.com/intl/cms/s/0/24145cfe-b89d-11e2-869f-00144feabdc0.html#slide0 //
Carlton Tan (2015). Lee Kuan Yew leaves a legacy of authoritarian
pragmatism. http://www.theguardian.com/world/2015/mar/23/lee-kuan-yews-legacy-of-authoritarian-pragmatism-will-serve-singapore-well //
David Reed (1979) Singapore: Jewel of Prosperity, “Reader’s Digest”,
November 1979. // Tom Plate (2011). Đối thoại với Lý Quang Diệu. Nxb. Trẻ.
[2] Xem: Michel Schuman (2009). The
Miracle: The Epic Story of Asia’s Quest for Wealth. Harper Collins
Pubishers. p. 57.
[3] Xem: James
Heartfield (2015). The Communist who made Singapore a Capitalist
Success. Lee Kuan Yew transformed a small trading post – but at a cost. http://www.spiked-online.com/newsite/article/the-communist-who-made-singapore-a-capitalist-success/16806#.VSLFZ5SsUrM // Nathan
Lewis (2011). Moving Toward 21st Century Capitalism. http://www.forbes.com/2011/01/12/capitalism-hong-kong-gdp-opinions-contributors-nathan-lewis.html
[4] Xem: Michel Schuman (2009). The
Miracle: The Epic Story of Asia’s Quest for Wealth. Harper Collins
Pubishers. p. 57.
[5] Carlton Tan (2015). Lee Kuan
Yew leaves a legacy of authoritarian pragmatism. http://www.theguardian.com/world/2015/mar/23/lee-kuan-yews-legacy-of-authoritarian-pragmatism-will-serve-singapore-well //
Can authoritarian capitalism outlive Lee Kuan Yew? http://demdigest.net/blog/can-authoritarian-capitalism-outlive-lee-kuan-yew
[6] Xem: Han Fook Kwang, Warren Fernandez,
and Sumiko Tan (1998). Lee Kuan Yew: The Man and His Ideas. Singapore:
“Time Editions”. p. 383.
[7] Xem: Michel Schuman (2009).Sđd. p. 58.
[8] Lee Kuan Yew, Prime Minister of
Singapore: brilliant, but a Bit of a Thug.“Life” No 16, July, 1965. p.
43. http://www.oldlifemagazines.com/july-16-1965-life-magazine.html
[9] Các số liệu này chọn từ: UNDP. Human
Development Report. 2003, 2005, 2007, 2011, 2013, 2014. Lưu ý: Số liệu
GDP từng năm tại các Báo cáo HDR có thể khác nhau do UNDP thay đổi cách tính
vào năm 2010. So với các tài liệu của WB, CIA hoặc IMF, số liệu về GDP và GNP
cũng khác do cách tính quy đổi ra USD PPP (Purchasing Power Parity).
[10] Xem: Corruption Perceptions Index
2014. http://www.transparency.org/cpi2014/in_detail
[11] Xem: Lee Kuan Yew’s Fight Against
Corruption. http://www.corruption.net/section/politics/singapore-lee-kuan-yew’s-fight-against-corruption/154
[12] Xem: Jon S.T. Quah. Corruption in
Asia with special Reference to Singapore: Patterns and Consequences. http://www.jonstquah.com/images/Corruption%20in%20Singapore%20AJPA.pdf //
Joshua Berlinger (2012). Why China Should Study Singapore’s Anti-Corruption
Strategy. http://www.businessinsider.com/why-china-should-study-singapores-anti-corruption-strategy-2012-12
[13] Xem: A guide to Singapore’s
wackiest laws. http://www.hotelclub.com/blog/singapore-weird-laws http://www.economist.com/blogs/graphicdetail/2015/03/lee-kuan-yews-singapore
[14] Xem: Tom Plate (2011). Đối thoại
với Lý Quang Diệu. Nxb. Trẻ. Tp Hồ Chí Minh. tr. 254, 260.
[15] Xem: Former president criticises
suppression of dissent. http://www.singapore-window.org/sw99/90329gm.htm. //
Uri Gordon (1977). Machiavelli’s Tiger: Lee Kuan Yew and Singapore’s
Authoritarian Regime. http://unpan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/apcity/unpan002548.pdf.
// Sim, Soek-Fang (2001). Asian value, Authoritarism and Capitalism in
Singapore. The Public Vol.8, 2, c. 45 – 66. http://javnost-thepublic.org/article/pdf/2001/2/3/
[16] Xem: Uri Gordon (1977). Machiavelli’s
Tiger: Lee Kuan Yew and Singapore’s Authoritarian Regime. http://unpan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/apcity/unpan002548.pdf.
// Devan Nair acted strangely Lee Kuan Yew. http://news.google.com/newspapers?nid=1309&dat=19880630&id=ElpPAAAAIBAJ&sjid=JpADAAAAIBAJ&pg=5119,3332621
[17] Xem: George, T. (1973), Lee Kuan
Yew’s Singapore. London: Andre Deutsch. C. 68-9.
[18] Xem: Singapore. How to earn a
living, Singapore style. http://singaporedissident.blogspot.com/2010/01/singapore-how-to-earn-living-singapore.html.
[19] Xem: J. B. Jeyaretnam
– Lawyers’ Rights Watch Canada. www.lrwc.org/j-b-jeyaretnam
[20] Xem: Nadel, A. (1997), ‘Singapore’s
Voice of Reason’. South China Morning Post (March, 1.). http://www.singapore-window.org/chee.htm //
Bell, Daniel A. (2000) East meets West: human rights and democracy in East
Asia. http://cs5538.userapi.com/u11728334/docs/30c79ab07cf7/Daniel_A_Bell_East_Meets_West_508055.pdf // Asia
Profile: Singapore democracy activist Chee Soon Juan. http://www.radioaustralia.net.au/international/radio/onairhighlights/asia-profile-singapore-democracy-activist-chee-soon-juan
[21] Niccolo Machiavelli (2005). Quân
Vương. Nxb. Lao động. tr. 9.
[22] “Between being loved and being feared,
I have always believed Machiavelli was right. If nobody is afraid of me, I’m
meaningless”. Lee Kuan Yew, 6.10.1997. Xem: Uri Gordon (2000). Machiavelli’s
Tiger: Lee Kuan Yew and Singapore’s Authoritarian Regime. http://unpan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/apcity/unpan002548.pdf.
[23] Niccolo Machiavelli (2005). Quân
Vương. Sđd. tr. 85, 94-95, 134, 175, 179-180.
[24] Xem: Uri Gordon (2000). Machiavelli’s
Tiger: Lee Kuan Yew and Singapore’s Authoritarian Regime. http://unpan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/apcity/unpan002548.pdf.
[25] Dân chủ là xu thế không thể đảo ngược. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn tại Viện Koerber, Berlin ngày
15/10/2014. http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/202481/thu-tuong–dan-chu-la-xu-the-khong-the-dao-nguoc.html.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét