Hoàng Long Hải – Khái lược
lịch sử đánh Tàu
Sunday, June
29, 2014
Giải thích:
Sau khi “tù
cải tạo” về tháng 7 năm 1982, đầu năm sau, buổi tối ngày 5 tháng Giêng ta, tôi
ghé ngồi một quán càphê ở góc đường Trần Hưng Đạo – Đề Thám. Bàn bên cạnh,
khoảng bốn, năm thanh niên cũng ngồi uống càphê. Nghe họ nói chuyện, tôi đoán
chừng người nói giọng Bắc là cán bộ, một “Bắc kỳ 75” chính hiệu. Những người
kia là “dân Saigon”. Có lẽ họ đang lén lút giao dịch gì đó với“ông cán bộ”, móc
ngoặc, mua bán “hàng quốc doanh” như thường xảy ra ở Saigon thời bấy giờ.
Tôi nghe
“ông cán bộ” nói:
-“Hôm lay nà
ngày Quang Trung đánh tan bọn Nguyên Mông ở “Thăng Nong” đấy.”
Dĩ nhiên,
tôi phải suy nghĩ về câu nói của “ông cán bộ” nầy. Không phải là việc “ông cán
bộ” nói ngọng.
Trước hết là
việc “ông nọ chắp cằm bà kia”. Vua Quang Trung đánh đuổi quân Tầu hay còn gọi
là Mãn Thanh vào năm Kỷ Dậu, tính theo Dương lịch là năm 1789. Còn như “Nguyên
Mông” thì bị quân nước Nam đời nhà Trần đánh bại tới ba lần, hồi thế kỷ 13,
trận đầu tiên là vào năm 1257. Hai sự kiện lịch sử cách nhau bốn trăm năm.
Thứ hai, anh
ta gọi là “Quang Trung” mà không gọi là “vua Quang Trung”, như cách gọi trong
lịch sử (Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim chẳng hạn). Việt Cộng “kỵ” cái
gì thuộc về vua chúa, “phong kiến”, là đối tượng đấu tranh của Cộng Sản. Gọi
“Quang Trung” mà không gọi “Vua Quang Trung”, đối người Việt, nói chung, – dĩ
nhiên không phải là người Cộng Sản – là xách mé, hổn láo, vô lễ, vô học.
Hồi trước,
sách sử gọi là “quân Nguyên” hay “quân Mông Cổ”, không gọi là Nguyên-Mông như
các “nhà sử học” Việt Cộng bây giờ.
Ý nghĩ chung
của tôi với “ông cán bộ” là dốt, vô giáo dục. Tuy nhiên, nghĩ lại thì “ông cán
bộ có biết gì đâu”. Ai dạy cho anh ta để biết lịch sử, nhất là “lịch sử chống
Tầu” mà các “nhà sử học Việt Cộng”, không dám gọi là Tầu, mà gọi đúng “chữ
nghĩa lễ phép” của Cộng Sản Hà Nội là “phong kiến phương Bắc”. Họ không dám nói
đụng chạm tới “tổ tiên của người Trung Quốc” như tổ tiên chúng ta ngày xưa và
người dân của Chính quyền Miền Nam (VNCH) đã gọi.
Thế tại sao
bây giờ anh ta “bàn tới sự kiện lịch sử” nầy. Có lẽ mấy năm nay, kể từ cuộc
chiến tranh giữa Tầu Đỏ và Việt Cộng, trong nội bộ cán bộ đảng viên có học tập
về việc “Trung Quốc đánh ta” nên “ông cán bộ” nầy đem chuyện “đánh Trung Quốc”
nói với đám thanh niên con cháu “Tay sai Mỹ Ngụy dốt nát”, chẳng biết gì về
“lịch sử nhân dân ta”, bị “nô dịch văn hóa” chỉ biết có “cơm thừa sữa cặn” mà
thôi.
Nhìn chung,
học sinh miền Bắc không được học sử một cách đứng đắn, chính thống. Chương
trình học chính yếu (VC gọi là chủ yếu) là học về đánh Tây, đánh Mỹ, đánh
“Ngụy”, không dám nói tới “đánh Tầu”.
Học sinh
miền Nam thì khác, cứ chính sử mà học, từ “Họ Hồng Bàng làm vua đầu tiên ở nước
ta” tới thời kỳ cận đại.
Hiện giờ,
tình hình giáo dục trong nước cũng không khá hơn, “Đảng và Nhà Nước” còn tránh
né, không dám nói chi đụng tới người Tàu, biết là “dổm” mà vẫn cứ hô hào “Bốn
tốt. Mười sáu chữ vàng” thì học sinh biết gì về lịch sử Chống Tầu.
Còn như ở
Hải ngoại, con em chúng ta ôm cập tới nhà trường Mỹ, ai dạy cho chúng “lịch sử
Việt Nam” để biết Hưng Đạo Đại Vương, Lý thường Kiệt là những ông nào. Bạch
Đằng, Chương Dương, Gò Đống Đa là cái gì để nghe và hiểu các bài ca lịch sử
hiện được trình bày thường xuyên trên các đài Radio và TV hải ngoại.
Trong nước
thì vì chính sách của “Đảng và Nhà Nước”, Hải ngoại thì vì hoàn cảnh giáo dục,
nên bọn trẻ u ơ về lịch sử VN. Vì vậy nên tôi phải viết bài nầy.
Trước hết,
tôi cố gắng nói gọn, rõ ràng, để các em dễ đọc, dễ nhớ, nhấn mạnh các điểm quan
trọng, cần thiết để chúng hiểu người Tầu thì như thế nào, người Việt thì như
thế nào. Tại sao Tầu và Việt đánh nhau “cả ngàn năm” mà chưa dứt, và cũng để
các em thấy thêm, biết gì thêm, nhớ gì về tinh thần của Dân Tộc và sẽ làm gì
cho Dân Tộc Việt Nam sau nầy, khi các em lớn khôn. Bên cạnh đó, tôi thêm các
phụ lục, nói một ích về dã sử có liên hệ đến các biến cố của thời kỳ ấy để làm
vui lòng và sự thích thú cho người đọc. Phần nầy giống như các bài lịch sử khi
tôi học lớp Ba, lớp Nhì bậc tiểu học.
Còn như
người nào muốn đọc hay nghiên cứu lịch sử Việt Nam, xin bỏ thì giờ đọc “Việt
Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, “Việt Sử Tân Biên” của Phạm Văn Sơn hay bộ
Việt Sử Đại Cương mới xuất bản của Trần Gia Phụng, không thiếu gì trên các
trang web./
Kính cẩn
hoànglonghải
Phần 1
Nói về
Một Ngàn Năm
Bắc Thuộc.
1)- Nguồn
gốc nước Việt Nam.
Nguồn gốc
dân tộc VN, nước VN là ở bên Tầu.
Trước thời
Tần Thủy Hoàng (259-210 trước Tây Lịch) thành lập Đế Quốc Tầu đầu tiên, nước
Tầu là một xứ tạp nham như thời kỳ Đông Châu Liệt Quốc, gồm nhiều nước ở Hoa
Bắc (phía Bắc sông Dương Tử) thì vùng Hoa Nam, phía Nam sông Dương Tử là lãnh
thổ của nước Việt, của một trăm giống Việt (Bách Việt). Những câu chuyện về Họ
Hồng Bàng, các vua Hùng Vương (đóng đô ở Phong Châu – Vĩnh Yên-) , v.v… là khi
lãnh thổ nước ta còn ở bên ấy.
Nói chung,
lịch sử nước ta hồi ấy con mù mờ, chưa có sách sử nào nói rõ ràng, nên được
hiểu đại khái như vậy.
Nước Nam
Việt của Triệu Đà (239-137), cũng ở Hoa Nam. Còn An Dương Vương, tên là Thục
Phán (trị vì 257-208), đóng đô ở Phong Khê, huyện Đông Anh, xây thành Cổ Loa,
cách Hà Nội 20km. Ca dao có câu:
Ai
về qua huyện Đông Anh
Ghé xem
phong cảnh Loa thành Thục vương…
Triệu Đà
dùng mưu, cho con trai là Trọng Thủy cưới con gái của An Dương Vương là Mỵ
Châu, cướp đất của An Dương Vương năm 208 trước TL.
Năm 111 tr.
TL, nhà Hán cướp đất Nam Việt của nhà Triệu. Thời kỳ một ngàn năm đô hộ là kể
từ năm nầy.
Cũng từ sự
kiện lịch sử nầy nên sau khi đại phá quân Thanh năm 1789, dù đang thắng trận,
vua Quang Trung phải sai sứ sang Tầu xin giảng hòa mà lòng vua thì còn hận.
Sử chép:
“Công việc
xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang
Tàu, xin cầu hôn và xintrả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản
ý nhưng muốn mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải
bệnh mất, các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh
triều biết.”
(VN Sử Lược –
Trần Trọng Kim/ cuốn 2)
2)- Một
ngàn năm Bắc thuộc
Một ngàn năm
Bắc thuộc là kể từ năm 111 Tr. TL như vừa nói, đến năm 939 sau TL, là năm Ngô
Quyền đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành
độc lập (sử thường gọi là quyền tự chủ).
Trong một
ngàn năm Bắc thuộc, người Lạc Việt (Việt Nam) có nhiều cuộc nổi dậy:
a)-Cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 sau TL)
Trưng Trắc
và Trưng Nhị là con quan Lạc Tướng ở Mê Linh. Vì chính sách cai trị tàn ác của
Thái Thú Tô Định, lại giết chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách nên Hai Bà kêu gọi
các nơi cùng nổi dậy chống Tầu, đuổi Tô Định chạy về nước, chiếm giữ 65 thành
trì. Bà Trưng Trắc tự xưng làm vua: Trưng Nữ Vương (Trưng Vương)
Hai Bà Trưng
đọc lời thề trước khi xuất binh:
“Một xin rửa
sạch nước thù
Hai
xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan
ức lòng chồng
Bốn xin vẻn
vẹn sở công lênh này”
Cột đồng
Đông Hán
Năm 43 sau
TL, nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang phục thù. Hai Bà thua trận, nhảy xuống
sông Hát tự vẫn. Mã Viện bèn cho dựng cột đồng, khắc lên đó mấy chữ: “Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt” có nghĩa là nếu đồng trụ bị đổ thì dân Giao
Chỉ bị tiêu diệt. Ngày nay, cột đồng đã mất dấu (1).
Về cột đồng,
bài thơ ca ngợi Hai Bà của Hoàng Cao Khải, có câu:
Cột
đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây
Hồ bóng nước gương.
b)-Cuộc khởi
nghĩa của Bà Triệu 248 sau TL)
Bà Triệu tên
là Triệu Thị Trinh, quê ở Thanh Hóa, thuở nhỏ, cha mẹ mất sớm, ở với anh là
Triệu Quốc Đạt. Năm 248, Bà cùng anh khởi nghĩa chống lại chính sách cai trị
tàn ác của người Tầu. Anh em Bà thắng nhiều trận lớn.
Đang lúc ấy
thì anh bà bị bệnh qua đời. Nghĩa binh thấy bà là người can đảm, mưu lược, bèn
tôn Bà làm minh chủ. Khi ra trận, Bà thường mặc áo vàng cởi voi, nên dân chúng
gọi Bà là “Nhụy Kiều Tướng Quân”
Nghe tin
khởi nghĩa, vua Ngô bên Tầu sai Lục Dận đem quân sang đánh. Bà chống lại quân
Đông Ngô được hơn nửa năm thì phải thua, bèn tuẫn tiết ở Thanh Hóa, năm 248 sau
TL, khi ấy Bà mới 23 tuổi.
Khi
Bà Triệu 19 tuổi, trả lời người hỏi Bà về việc chồng con, Bà
nói:
“Tôi chỉ
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy
lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng
làm tì thiếp cho người!”
c)-Lý Nam-Đế
dựng nuớc
Tên thật là
Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, gốc người Tầu, sang ở nước ta đã mấy đời, trở
thành người Việt.
Bấy giờ nhà
Lương bên Tầu đang cai trị nước ta rất tàn ác. Năm 542, Lý Bí ở Hà Tĩnh, hiệp
cùng dân chúng các nơi, nổi lên chống Tầu. Thứ sử là Tiêu Tư sợ hãi, bỏ chạy về
Tầu. Lý Bí liền đem quân ra chiếm thành Long Biên (Hà Nội bây giờ). Cuối năm
ấy, vua nhà Lương lại sai quân qua đánh dẹp. Lý Bí liền đón đánh. Quân Tầu thua
to, lại bỏ chạy về Tầu.
Lý Bí lên
làm vua, tự xưng là “Nam Việt Đế”, sử gọi là Lý Nam Đế, đặt tên nước
là Vạn Xuân.
Năm 545,
quân Tầu lại sang xâm lăng, Nam Việt Đế thua trận, đem quân chạy về phía Nam.
Ông tập hợp binh mã, thế lực lại mạnh lên, nhưng vẫn không chống nỗi quân Tàu.
Ông bèn giao binh quyền cho Triệu Quang Phục.
Triệu Quang
Phục chống không lại quân Tầu vì chúng quá đông. Ông lui về giữ Đầm Dạ Trạch là
chỗ hiểm yếu, dùng chiến thuật du kích để đánh Tầu vào ban đêm, thắng nhiều
trận nên dân chúng gọi ông là “Dạ Trạch Vương”.
Bấy giờ, anh
của Lý Nam Đế (Lý Bí) là Lý Thiên Bảo, cùng với tướng là Lý Phật Tử, khởi binh
ở Cửu Chân (Thanh Hóa), bị quân Tầu đánh bại, chạy trốn qua Ai Lao (Lào).
Năm 548, Lý
Nam Đế mất, Triệu Quang Phục tự xưng vua, tức Triệu Việt Vương.
Năm 550,
thấy quân Tầu bây giờ thế yếu, Triệu Quang Phục bèn đem quân đánh, đuổi quân
Tầu về nước, lấy lại nước Vạn Xuân, lại đem quân về đóng ở Long Biên.
Sau khi chạy
qua Lào, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử lại đem quân về nước. Năm 555, khi Thiên
Bảo chết, Lý Phật Tử tự xưng làm vua, đem quân đánh Triệu Việt Vương. Lý Phật
Tử thấy thế mình còn yếu, bèn xin giảng hòa. Triệu Việt Vương cắt đất cho hòa.
Lý Phật Tử
dùng mưu gian như Triệu Đà, kết sui gia với Triệu Quang Phục, rồi bất ngờ đem
quân đánh úp. Triệu Việt Vương chống không lại, đem con gái lên ngựa chạy về
phía nam, khi đến biển Đại Nha, hết đường chạy bèn nhảy xuống biển tự tử.
Lý Phật Tử
lên làm vua, đóng đô ở Phong Châu (Vĩnh Yên), cũng xưng là Lý Nam Đế, đời sau,
sử gọi là Hậu Lý Nam Đế, để phân biệt với Lý Bí.
Năm 602, nhà
Tùy bên Tàu đem quân sang đánh nước ta, Lý Phật Tử biết thế chống không nỗi,
bèn xin hàng. Nước ta lại bị Tầu đô hộ một lần nữa.
Kể từ khi Lý
Bí nổi lên chống Tầu (542) đến khi Lý Phật Tử đầu hàng (602) là đúng 60 năm.
d)-Mai Hắc
Đế và Bố Cái Đại Vương
Năm 722 Mai
Hắc Đế (Mai Th úc Loan) thấy chính sách cai trị của
nhà Đường (Tầu) tàn ác, bèn nổi lên chống lại, chiếm giữ vùng Hoan Châu (Nghệ
An). Ông quê ở Hà Tĩnh, người khỏe mạnh, da đen sì, nên sử gọi là Mai Hắc (Đế).
Nhà Đường
bèn đem thêm quân qua đánh Hắc Đế. Ông thua chạy rồi phải bệnh mà chết. Nay ở
Nghệ An còn có đền thờ.
Mười tám năm
sau, năm 791, Phùng Hưng lại nổi lên đánh phá quân Tầu. Phùng Hưng chiếm được
Đô Hộ phủ, mấy tháng sau thì ông qua đời. Dân chúng kính mến ông, lập đền thờ
và gọi ông là “Bố Cái Đại Vương”. Người Việt thường gọi cha là Bố, mẹ là Cái.
Họ tôn kính ông như cha mẹ.
Quân sĩ tôn
con ông là Phùng An lên nối nghiệp.
Cùng năm ấy,
quân Tầu lại sang. Phùng An thấy không chống nỗi, bèn xin hàng.
e)-Họ Khúc
dấy nghiệp (906-907)
Bên Tầu có
loạn. Ở Giao Châu, có ông Khúc Thừa Dụ, quê ở Hải
Dương, là người giàu có, tính tình đôn hậu, dân chúng tôn ông làm Tiết Độ Sứ để
lo việc cai trị. Được một năm, Khúc Thừa Dụ mất, trao quyền lại cho con
là Khúc Hạo. Khúc Hạo cầm quyền cai trị được 10 năm
(907-917). Khúc Hạo mất, truyền lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. (917-923)
Sau đó, bên
Tầu, nhà Lương cướp ngôi nhà Đường, đến năm 923, cho quân sang xâm chiếm nước
ta, bắt được Khúc Thừa Mỹ, đem về Tầu, lại sai quan sang cai trị nước ta.
f)-Dương Diên
Nghệ và Kiểu Công Tiện (933-938)
Dương Diên
Nghệ nguyên là tướng của Khúc Hạo. Ông nổi lên đánh Tầu, đuổi chúng chạy về
nước. Xong, Dương Diên Nghệ xưng là Tiết Độ Sứ. Được sáu năm, ông bị thuộc
tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy binh quyền.
g)-Ngô Quyền
đuổi quân Nam Hán,
giết Thái tử
Hoằng Tháo,
chấm dứt một
ngàn năm nô lệ.
Tướng của
Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền đem quân đánh Kiểu Công Tiện để báo thù.
Nguyên Ngô
Quyền người quê ở Sơn Tây, là người tài trí, được Dương Diên Nghệ gả con gái
cho.
Bị tấn công,
Kiểu Công Tiện cầu cứu với người Tầu.
Vua Nam Hán
của Tầu sai con là Hoằng Tháo đem quân đi trước, còn vua tự thân chinh đem quân
theo sau tiếp ứng.
Sử chép:
“Khi quân
Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu
Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một
mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong
rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi
theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua
chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa,
Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.
Hán Chủ nghe
tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu
nữa.
(Viêt Nam Sử Lược –
Trần Trọng Kim, cuốn1)
Nhận xét về
Ngô Quyền, Trần Trọng Kim viết như sau:
“Ngô Quyền
trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường
địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà
cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn
một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự
chủ ở cõi Nam vậy.
Lịch sử
thường gọi thời gian từ năm 111 Tr. TL đến năm 939 là năm Ngô Quyền đuổi quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành quyền độc lập là “Một ngàn năm nô lệ
giặc Tầu”.
Người Việt
thường gọi bọn Tầu xâm lăng là “Giặc Tầu”, xưa đã vậy mà nay cũng thế.
Tuy nhiên,
trong một ngàn năm đó, tình hình Giao Châu không bao giờ yên vì
người Việt luôn luôn quật khởi, đánh lại người Tầu, giành quyền tự chủ.
Vì vậy, thời
gian “Một ngàn năm” phải được chia thành 3 thời kỳ, sử gọi là:
-“Bắc thuộc
lần thứ nhất” (từ 111 Tr. TL đến năm 40 sau TL, dài 141 năm),
-“Bắc thuộc
lần thứ hai” (từ năm 43 sau TL đến 544 sau TL, dài 541 năm), và
-Bắc thuộc
lần thứ ba” (từ 602 sau TL đến 939 sau TL, dài 337 năm).
(1)-Ông
Giang Văn Minh đổ thám hoa (cao nhất kỳ thi năm ấy), được cử đi sứ Tầu đời
Lê-Trịnh. Vua nhà Minh vì còn bênh nhà Mạc ở Cao Bằng, nên không chịu phong
vương cho vua Lê, còn đem chuyện đồng trụ mai mỉa nước ta, ra câu đối:
“Đồng trụ
chí kim đài dĩ lục””
Nghĩa là:
Đồng trụ đến
giờ rêu vẫn mọc.
Giang Văn
Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
“Đằng Giang
tự cổ huyết do hồng”
Có nghĩa là: “SôngBạch Đằng
từ xưa, máu vẫn đỏ”
Vua
Minh giận lắm, bèn sai người mổ bụng ông để “bọn sứ thần An Nam to gan
lớn mật đến đâu”.
Vua
nhà Minh Tư tông cho đem xác ông về nước, khi thi hài của ông về đến
Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và
chúa Trịnh Tráng bái
kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công Bộ Tả Thị Lang, tước Vinh Quận
Công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức
là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ),
Tại sao cột
đồng mất dấu?
“Trong bài
“Les colonnes de bronze de Ma Vien” đăng trong Bulletin des Amis du
Vieux Hue ngày 10 tháng 11 năm1943, học giả Đào Duy Anh cho
rằng chuyện cột đồng là có thật và có lẽ nó được dựng ở núi Thành (tức núi Lam
Thành hay núi Đồng Trụ, tên chữ là Hùng Sơn) ở Nghệ An. Và ông tin tưởng
lời phán đoán của mình là đúng vì nó gần ăn khớp với sự ghi chép của sách Ngô lục và Tùy thư.”
(Wikipedia).
Người Lạc
Việt sợ “đồng trụ chiết” nên mỗi khi đi ngang qua, bỏ vào chân cột đồng một cục
đá, đến nỗi cột đồng bị lấp mất.
Phần 2
Một ngàn năm
đánh Tầu.
A)-Đời Lý
Trần
1)-Đánh Tầu
đời Tiền Lê
Lê
Hoàn làm quan “Thập Đạo Tướng Quân” của nhà Đinh. Năm 981, nhà Tống chuẩn
bị đem quân xâm lăng nước ta. Vì vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, nên quân sĩ tôn Lê
Hoàn lên làm vua để lo việc chống Tầu. Ông tự xưng là Lê Đại Hành.
Quân
Tống chia làm 2 đạo: Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng tiến quân qua ngã Lạng Sơn.
Lưu Trừng chỉ huy quân thủy tiến theo ngã sông Bạch Đằng.
Ban
đầu, thế giặc mạnh lắm, dù Lê Hoàn đã chuẩn bị các nơi, cũng phải lui quân,
nhưng cho phục binh đánh quân bộ của Tầu ở Chi Lăng, bắt được Hầu Nhân Bảo, bèn
giết đi. Quân Tầu đại bại, chết quá nửa.
Lưu
Trừng chỉ huy thủy quân thấy vậy, bèn rút quân chạy về nước.
Tuy
thắng trận nhưng sợ nhà Tống phục thù, chiến tranh kéo dài, dân tình khốn khổ
nên Lê Đại Hành phải sang sứ xin hòa. Vua Tống phong cho vua Lê làm “Giao Chỉ
Quận Vương”.
2)- Đánh Tầu
đời nhà Lý.
Lý Thường
Kiệt tấn công Lưỡng Quảng
Bên
Tầu, Tể tướng Vương An Thạch đặt ra “tân pháp” khiến dân chúng bất mãn. Để trấn
an dân chúng và ổn định tình hình, Vương An Thạch chủ trương đánh nước ta. Thế
rồi Thạch sai Lưu Gi thám xét địa thế nước ta để khởi binh.
Nhà
Lý nghi ngờ hành động ấy, bèn viết thư sang hỏi Tống triều. Lưu Gi bắt giữ sứ
của ta lại, không cho về.
Nhà
Lý bèn sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản chỉ huy một trăm ngàn quân, chia làm 2 đạo
sang đánh nước Tầu, lấy cớ là để cứu người Tầu khỏi ách cai trị tàn ác của nhà
Tống.
Năm
1075, Lý Thường Kiệt đem quân đánh Châu Khâm và Châu Liêm (thuộc Quảng Đông).
Tôn Đản đánh Ung Châu (thuộc Quảng Tây). Tướng Tầu là Trương Thủ Tiết đem quân
cứu Ung Châu, bị Lý Thường Kiệt vây đánh, giết Trương Thủ Tiết tại trận.
Tôn Đản vây
thành Ung-châu hơn 40 ngày, quan tri-châu là Tô Đam cố giữ thành. Đến khi quân
nhà Lý hạ được thành, thì Tô Đam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước,
rồi tự đốt chết theo. Người trong thành cũng bắt chước quan tri châu, không ai
chịu hàng cả. Quân nhà Lý vào thành giết hại gần đến 58.000 (?) người, xong rút
quân về.
Vua Tống
giận lắm, cuối năm 1076, bèn sai Quách Quì cùng một số tướng sĩ và binh lính
sang đánh nước ta. Vua Lý sai Lý thường Kiệt đem binh cự địch. Ông đánh chặn
quân nhà Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu bây giờ). Quân Tống đánh trận ấy chết
hơn 1.000 người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú Lương.
Lý Thường
Kiệt đón đánh, không cho quân Tầu sang sông. Lúc bấy giờ quân Tống đánh hăng
lắm, Lý Thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình ngã lòng, bèn đặt ra
một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ:
Nam-quốc
sơn-hà Nam đế cư
Tiệt nhiên
định phận tại thiên thư
Như hà
nghịch lỗ lai xâm -phạm
Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư.
Binh sĩ nghe
đọc mấy câu thơ ấy, hết lòng đánh giặc. Quân Tống không tiến lên được. Hai bên
chống giữ nhau. Mãi sau, Vua nhà Lý thấy đánh lâu không lợi, bèn xin hoãn binh.
“Vua Tống
thấy quân Tầu không tiến lên được, lại đóng ở chỗ chướng địa, quân sĩ hơn 8
vạn, chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn binh để lui về, nhưng vẫn ngoan
cố chiếm giữ một số đất đai của ta ở mạn Cao Bằng, Lạng Sơn.
Năm 1078,
vua nhà Lý sai Đào Tôn Nguyên đi cống sang Tầu và đòi lại các vùng đất đã bị
chiếm. Vua Tống bắt phải trả lại những người Tầu mà Lý Thường Kiệt và Tôn Đản
dã bắt ngày trước.
Năm sau, vua
nhà Lý thả những người bị bắt về và lấy lại đất đã bị mất.
Năm 1084,
vua Lý Nhân Tông sai quan là Lê Văn Thịnh sang Tầu định lại biên giới giữa hai
nước. Hai bên lại hòa hiếu. vua Tống phong chu vua Lý làm “Nam Bình Vương”.
3)-Ba lần
đánh bại quân Mông Cổ.
Người
Mông Cổ cởi ngựa giỏi, bắn cung hay, rất thiện chiến. Thành Cát Tư Hãn từng
nói: “Vó ngựa quân ta đến đâu, cỏ ở đấy không mọc được nữa.”
Trong
khi đem quân đánh nhà Tống, Hốt Tất Liệt sai “Ngột Lương Hợp Thai” đánh chiếm
Vân Nam. Xong việc, y sai sứ sang nói với vua Trần thần phục Mông Cổ. Vua nhà
Trần không nghe, bắt giam sứ Mông Cổ, rồi sai Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo)
đem quân giữ mạn bắc. Bấy giờ là năm 1257.
Sài Thung đi
sứ
Vua
Mông Cổ nghe tin Trần Thánh Tông mới lên ngôi, bèn sai Sài Thung sang sứ nước
ta.
Thung là người kiêu ngạo, đến Thăng
Long, y đi thẳng vào cửa chính, đưa thư trách cứ vua Nhân Tông: “Sao không
xin phép triều-đình nhà Nguyên, mà dám tự lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều
Hoàng-đế mới xong”.
Nhân
tông mở tiệc mời Sài Thung, bảo Sài Thung rằng: “Quả-nhân xưa
nay sinh-trưởng ở trong cung không quen phong-thổ, không thể nào đi được”.
Năm
1282, Vua Mông Cổ lại sai sứ sang thúc hối, vua nhà Trần bèn sai Trần Di Ái đi
thay cho nhà vua. Vua Mông Cổ không chịu, bèn sai quan qua nước ta làm
giám trị. Vua Nhân Tông đuổi bọn chúng về nước.
Vua
ngà Nguyên giận lắm, phong cho Trần Di Ái làm An-Nam Quốc Vương, bèn sai Sài
Thung đưa Di Ái về nước. Vua nhà Trần nghe tin, sai quân lên đón đánh. Sài
Thung bị bắn hư một mắt, sợ hãi bỏ chạy về Tầu.
Thoát Hoan
sang đánh lần thứ nhất.
Vua
Mông Cổ thấy Sài Thung bị thương chạy về, giận lắm, bèn sai con (Thái tử) Thoát
Hoan cùng Toa-Đô và Ô-Mã-Nhi đem nửa triệu quân, giả tiếng là mượn đường đi
đánh Chiêm Thành để xâm lăng nước ta.
Hội Nghị
Bình Than
Nghe
tin, Nhân Tông mở hội nghị Bình Than (chỗ sông Đuống gặp sông Thái Bình), họp
các tướng lại, bèn kế chống giặc.
Các tướng,
nhất là Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ trương quyết chiến.
Bóp nát trái
cam (Trần
Quốc Toản)
Trần
Quốc Toản bấy giờ mới 17 tuổi, không được dự hội nghị. Ông tức giận, cầm quả
cam trong tay bóp nát lúc nào không hay. Sau đó, ông cùng bạn bè, thu dụng
người có nghĩa khí, lập một đội quân, cờ đề sáu chữ “Phá cường tặc, báo
hoàng ân”,đánh thắng quân Mông nhiều trận, lập được công lớn.
Một chống
hai rưởi.
Để
chống giặc, Trần Hưng Đạo hội các tướng ở Đông Bộ Đầu (1284). Quân thủy bộ cả
thảy được hai trăm ngàn.
Được
ít lâu, nghe tin quân Nguyên chuẩn bị sang đánh, vua Trần có ý lo, bèn sai sứ
sang Tầu, xin hoãn binh. Vua Nguyên không cho sai Thoát Hoan cứ tiến binh.
Hội Nghị
Diên Hồng.
Trước
tình hình đó, vua Nhân Tông mở Hội Nghị Diên Hồng, họp các bô lão để hỏi “hòa
hay chiến”. Các bô lão đồng thanh hô “chiến”. Vua thấy vậy, hăng hái cương
quyết kháng cự.
Mông Cổ xâm
lăng
Quân
Nguyên chia làm hai đạo tiến sang nước ta:
1/ Toa-Đô
đem một trăm ngàn quân, đi đường thủy đánh Chiêm Thành. Chiếm được nước nầy,
quân Tầu sẽ là mũi tấn công từ phía nam.
2/ Thoát
Hoan tiến theo đường Lạng Sơn, lại có thư vừa dụ vừa dọa rằng: “Bản-súy
chỉ nhờ đường Nam-quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại.
Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi đến đâu, nhờ giúp ít nhiều lương-thảo,
rồi khi nào phá xong Chiêm-thành thì sẽ có trọng tạ về sau. Nhược bằng kháng-cự
thiên binh, thì bản-súy sẽ không dong tình, phá tan bờ-cõi, bấy giờ dù hối lại
cũng không kịp”.
Trần
Hưng Đạo đuổi sứ giả của Thoát Hoan về, chia binh giữ các ải ở Lạng Sơn, đích
thân Trần Hưng Đạo đóng ở phía sau chờ tiếp ứng.
“Xin chém
đầu tôi rồi hãy hàng.” (Hưng Đạo Vương)
Quân
Thoát Hoan tiến tới, đánh với quân của Trần Hưng Đạo mấy trận không phân thắng
bại. Khi Thoát Hoan đánh Chi Lăng, Trần Hưng Đạo thua phải rút về Vạn Kiếp.
Vua
Trần nghe tin bại trận, liền đi thuyền nhỏ đến Hải Dương, cho vời Trần Hưng Đạo
đến hỏi: “Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân-sự tàn-hại, hay
là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân.” Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Bệ-hạ
nói câu ấy thì thật là lời nhân-đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu
bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng”. Vua
nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.
“Sát Đát”
Hưng
Đạo Vương tập họp quân ở Vạn Kiếp, được hơn hai trăm ngàn quân. Bấy giờ Vương
soạn ra cuốn “Binh Thư Yếu Lược”, rồi truyền hịch khuyên răn tướng sĩ, làm cho
tinh thần họ lên cao. Mỗi người lấy mực chích vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”,
nghĩa là “giết quân Mông Cổ”.
Thăng Long
thất thủ
Khi
ấy, Thoát Hoan thừa thắng đánh cuống Vạn Kiếp, bắt được người nào có chữ “Sát
Đát” đều giết cả. Quân Thoát Hoan kéo tới sông Hồng Hà, cho bắt cầu phao qua
sông, kéo đến chân thành Thăng Long hạ trại.
Khi
Thoát Hoan hạ được thành rồi, mới biết vua ta đã đi về phương nam, liền cho
quân đuổi theo.
Toa Đô thua
trận
Toa-Đô
cho quân đánh Chiêm Thành nhưng thất bại, bèn kéo ra đánh Nghệ An. Ô Mã Nhi đem
thủy quân tiếp ứng với Toa-Đô.
Nghe
tin ấy, Hưng Đạo vương sai Trần Quang Khải đem quân phòng bị phía nam, không
cho quân Nguyên đánh ra, lại sai Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường chận quân
Thoát Hoan rồi rước vua về Hải Dương.
Trần
Quang Khải không cự nỗi quân Nguyên, phải rút lui.
“Thà làm quỉ
nước Nam” (Trần
Bình Trọng)
Trần
Bình Trọng đem quân đánh quân Nguyên ở Đà Mạc (Hưng Yên), thua trận bị
bắt. Thoát Hoan biết Trần Bình Trọng là tướng khỏe mạnh, muốn
khuyên dụ về hàng, thết đãi ăn-uống, nhưng Trần Bình Trọng không ăn,
dỗ dành hỏi dò việc nước, TrầnBình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan
hỏi rằng: “Có muốn là vương đất Bắc không?” Bình Trọng
quát lên rằng: “Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất
Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!”Thoát
Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.
Bấy
giờ thế giặc mạnh lắm, Hương Đạo Vương phải đem vua trốn tránh, ngày đêm lo
nghĩ kế chống giặc, không sợ hãi chút nào.
“Cầm Hồ Hàm
Tử quan” (trận Hàm
Tử)
Không
thắng được Toa-Đô, Trần Quang Khải lui về giữ những nơi hiểm yếu ở phía nam,
khiến Toa-Đô đánh mãi không được, lương thực ngày mỗi cạn, bèn cùng Ô-Mã-Nhì đi
đường biển ra phía Bắc với Toát Hoan.
Trước
tình hình như thế, Hưng Đạo Vương tâu cùng vua Nhân Tôn: “Toa Đô tự
Chiêm-thành trở ra, qua vùng Ô-lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái
(Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì
sức-lực cũng đã mỏi-mệt. Vậy nay nên sai một tướng đem quân ra đón đường mà
đánh thì chắc phá được.”
Vua
bèn sai Trần Nhật Duật, có Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái làm phó tướng đêm 50
ngàn quân đón đánh Toa-Đô ở Hàm Tử (Hải Dương). Trong quân ta có Triệu Trung là
tướng nhà Tống từ bên Tầu chạy qua xin gia nhập. Quân Nguyên lại tưởng lầm nhà
Tống đã lấy lại Trung nguyên, nay cho quân sang giúp nước Nam nên bọn chúng sợ
hãi bỏ chạy. Toa-Đô thua to, rút về Thiên Trường.
Được
tin ấy, Hưng Đạo Vương bèn tâu với vua: “Quân ta mới thắng, khí-lực
đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này tiến
quân đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh-thành”.
Vua
Nhân Tông sai hai đạo quân: Đạo thứ nhất do Trần Quang Khải vừa mới từ Nghệ An
ra, đem quân đánh thẳng vào Thoát Hoan ở Thăng Long. Đạo thứ hai do Trần Nhật
Duật chỉ huy, đánh chặn đường không cho Toa-Đô hợp binh cùng Thoát Hoan.
“Cướp sáo
Chương Dương độ” (Trận Chương Dương)
Thoát
Hoan đóng binh ở Thăng Long, thủy binh
đóng ở bến Chương Dương.
Trần
Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đem quân đánh vào chiến thuyền quân
Nguyên. Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không chịu nỗi, phải bỏ chạy. Thừa
thắng, quân ta kéo đến thành Thăng Long hạ trại. Thoát Hoan đem quân ra cự, bị
phục binh của Trần Quang Khải, phải bỏ Thăng Long rút qua sông Hồng Hà chạy lên
phía Bắc Ninh.
Trần
Quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui vẻ,
Quang Khải ngâm bài thơ rằng:
Đoạt sáo
Chương-dương độ
Cầm Hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang-san
Cầm Hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang-san
Dịch nôm:
Chương-dương
cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình
nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Non nước ấy nghìn thu
Trận Tây
Kết (1285)
Bấy
giờ Toa-Đô không liên lạc được với Thoát Hoan, cũng không biết Thoát Hoan đã bỏ
chạy khỏi Thăng Long. Hưng Đạo Vương xin vua sai Trần Nhật Duật cùng Trần Quang
Khải đem quân giữ các nơi, không cho Toa-Đô và Thoát Hoan thông thương được với
nhau, còn Vương thì tự đem quân đánh Thoát Hoan, cho một đạo phục binh đánh úp
Toa-Đô.
Bấy
giờ quân ta thắng hai trận lớn ở Hàm Tử và Chương Dương, tinh thần lên cao lắm.
Quân Nguyên không địch nỗi, bỏ
thuyền lên bộ mà chạy. Toa-Đô bị tên chết. Ô-Mã-Nhi tìm đường chạy vào Thanh
Hóa, bị chận đánh rất gắt, bèn bỏ quân lính, một mình trốn lên một chiếc ghe
nhỏ mà chạy về Tầu.
Ở
Tây Kết, quân của Vương toàn thắng, bắt sống ba chục ngàn quân Mông Cổ và vô số
thuyền bè, khí giới. Vương cho khao quân rồi đem quân tiếp tục đánh đuổi Thoát
Hoan.
Trận Vạn
Kiếp.
Thấy
quân các nơi đều bị đại bại, Thoát Hoan có ý bỏ chạy. Vương đoán biết ý ấy bèn
sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái dẫn ba chục ngàn quân phục sẵn ở bờ sông Vạn
Kiếp, chờ quân Mông rút về thì đổ ra đánh, sai hai con trai của Vương ra giữ
mạn Quảng Yên, không cho quân Mông chạy về. Còn Vương tự dẫn quân đánh Thoát
Hoan.
Thoát
Hoan thua trận, rút chạy về ngã Vạn Kiếp, bị phục binh của Phạm Ngụ Lão và
Nguyễn Khoái, mười phần chết hết năm. Thoát Hoan sợ tên phải chui vào
ống đồng, bỏ lên xe mà chạy. Đến gần châu Tư Minh, Thoát Hoan còn bị hai
con trai của Vương đổ ra đánh, tên bắn như mưa, các tướng Nguyên chết cả. Trận
ấy tướng Mông Cổ chỉ có Thoát Hoan, A-Bát-Xích và
Phàn Tiếp thoát được về Tầu mà thôi.
Thoát Hoan
sang đánh lần thứ hai
Thoát
Hoan tuy đại bại chạy về Tầu, nhưng lòng căm hận lắm, định xin vua Nguyên cho
thêm binh lính sang đánh phục thù. Vua Nguyên y cho, sai đóng thêm chiến
thuyền, tập họp binh mã, dự trù tháng 8 năm ấy sẽ khởi binh.
Vua
nhà Trần nghe tin ấy, lấy làm lo, bèn cho gọi Hưng Đạo Vương vào hỏi: “Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến
này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế
gì mà chống lại được?”
Hưng-đạo-vương
tâu rằng: “Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập
đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ
trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ,
đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây
giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại
thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh
nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân
Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo”.
Nghe
xong, vua yên lòng, bèn sai các nơi chuẩn bị để nghênh giặc.
Năm
1287, Thoát Hoan làm đại nguyên súy, đem 3 trăm ngàn quân cùng 5 trăm chiến
thuyền chia làm hai đạo: Thoát Hoan dẫn một đạo đi đường bộ theo ngã Quảng Đông
mà vào Bắc Giang. Đạo thủy binh do Ô-Mã-Nhi, Phàn Tiếp theo đường biển mà vào
nước ta.
Được
tin, vua sai các vương hầu, thống lĩnh cá nơi phòng giặc. Hưng Đạo Vương sai
Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn ba chục ngàn quân giữ mặt Lạng Sơn. Trần Quốc
Toản, Lê Phụ Trần dẫn ba chục ngàn quân giữ mặt Nghệ An. Vương tự mình đem quân
giữ mặt Quảng Yên.
Thế
quân Mông Cổ mạnh lắm. Vương chống không nỗi, phải lui về Vạn Kiếp. Thoát Hoan
sai quân đánh Vạn Kiếp, lại sai Ô-Mã-Nhi đánh vào sông Hồng. Hưng Đạo Vương
phải rút về Thăng Long, xa giá phải bỏ kinh thành, rút về phía nam, rồi vào
Thanh Hóa.
Thoát
Hoan đem quân đánh vào Thăng Long nhưng không chiếm được thành, phải lui về Vạn
Kiếp. Hưng Đạo Vương lại tiến quân lên chống giặc.
Trận Vân Đồn
Quân
Nguyên đóng ở Vạn Kiếp, tiến thoái lưỡng nan, lương thực sắp cạn, bèn sai
Ô-Mã-Nhi đem chiến thuyền ra ngã Hải Dương đón thuyền lương của Trương Văn Hổ
bên Tầu sang. Trần Khánh Dư chận đường Ô-Mã-Nhi nhưng bị đại bại. Ô Mã Nhi đi
thẳng ra biển.
Thua
trận, Trân Khánh Dư bị vua sai sứ ra hỏi tội. Trần Khánh Dư thưa: “Tôi
sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà
tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?”
Mấy
hôm sau, sau khi gặp Trương Văn Hổ rồi, Ô-Mã-Nhi lại trở vào, đi trước dẹp
đường, thuyền lương thực Trương Văn Hổ đi sau.
Thấy
thế, Trần Khánh Dư nghĩ rằng Ô-Mã-Nhi vừa thắng trận, nên ỷ y, bèn nhặt nhạnh
thuyền bè, tập hợp binh sĩ, phục sẵn, chờ thuyền Trương Văn Hổ đến.
Quả
nhiên, khi thuyền Trương Văn Hổ đến vịnh cửa Lục thì bị đánh úp. Bao nhiêu thuyền
lương và vũ khí đều bị cướp cả. Trương Văn Hổ bại trận, lên chiếc thuyền nhỏ
chạy về Tầu.
Được
tin, vua quan của ta đều mừng. Vua bảo Hưng Đạo Vương rằng: “Quân
Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì
thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên
tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã
lòng, bấy giờ mới phá rất dễ”.
Trận Bạch
Đằng, “lời
thề sông Hóa”
Sau
khi thua trận Vân Đồn, binh tướng quân Nguyên đều nao núng, chỉ muốn rút về.
Hưng Đạo Vương đoán biết ý ấy, chuẩn bị đánh đuổi giặc.
Thoát
Hoan sai Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy binh theo sông Bạch Đằng ra biển về
trước, sai Trình Bằng Phi, Trương Quân chặn hậu để Thoát Hoan đem quân về.
Hưng
Đạo Vương sai “Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông
thượng-lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông,
rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến,
nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay
binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa dẫn quân lên
phục ở ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra
đánh.”
Khi ngang
“sông Hoá lúc ấy vào mùa nước cạn nên Hưng Đạo Vương cho con voi chiến của mình
lội qua sông. Chẳng may lội đến giữa sông thì voi bị sa lầy không sao nhúc
nhích được nữa. Thấy thế, nam phụ lão ấu trong làng đổ ra tìm đủ mọi cách như
bắc ván, lót rơm… để giúp voi qua sông nhưng rốt cuộc đều không kết quả. Việc
binh như lửa, không thể chậm trễ, Hưng Đạo Vương đành quyết định bỏ voi lại.
Con voi khôn ngoan tội nghiệp cứ nghểnh đầu trông theo vị chủ tướng và ứa nước
mắt. Hưng Đạo Vương không khỏi mủi lòng đến nỗi nước mắt vương cũng ứa ra.
Nhưng không thể để cho những tình cảm uỷ mị làm mềm lòng quân sĩ trước một trận
chiến mang tính chất quyết định, vương bèn nói:
“Ta thương
là thương con voi trung với nước và có nghĩa với ta, chứ không phải ta lo sợ có
sự gì bất tường (điềm gở) đâu! Ta nói cho các ngươi biết: trong quân sĩ nếu ai
để cho lòng nao núng thì hãy trông thần kiếm của ta đây!
Và
thề rằng: “Trận này mà không phá xong giặc
Nguyên thì không về đến sông này nữa!”
Quân
sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-Đằng.
“Chiến-thuyền
của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch Đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà
Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu chiến. Ô Mã Nhi tức giận thúc
quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc
thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô Mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ
việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi
mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng
Đạo-vương tiếp đến. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay
thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã
rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm
vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu
loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc
đều bị bắt cả.”
“Trận
Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của
quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.”
Thoát Hoan
rút về theo đường bộ. Đến ải Nội Bàng thì gặp phục binh của Phạm Ngũ Lão đổ ra
đánh. Quân Nguyên vùa chống vừa chạy. Trường Quân đi đoạn hậu bị Phạm Ngũ Lão
chém chết. Binh Nguyên mười phần chết hết năm sáu.
Bấy
giờ Thoát Hoan lại nghe tin cấp báo đường về đã bị chặn cả, bèn sai A-Bát-Xích,
Trương Ngọc đem quân mở đường. Áo-Lỗ-xích đi chận hậu, còn y đi giữa. Phục binh
của Vương trên núi bắn tên dộc xuống như mua, hai tướng đi đầu đều tử trận cả.
Thoát Hoan phải theo đường tắt mà trốn chạy về Tầu.
Dẹp
giặc xong, Hưng Đạo Vương rước xa giá về lại Thăng Long. Triều đình đem
các tướng Nguyên bị bắt làm lễ hiến phù trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái
Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy
con ngựa đá đều lấm bùn, cho rằng các tiên đế cũng cởi ngựa đá đi đánh
giặc bèn làm hai câu thơ:
Xã-tắc lưỡng
hồi lao thạch mã,
Sơn-hà thiên
cổ điện kim âu.
Dịch nôm:
Xã-tắc hai
phen bọn ngựa đá,
Non sông
thiên cổ vững âu vàng.
Sợ
vua Nguyên phục thù, chiến tranh kéo dài, dân tình khốn khổ nên năm 1288, vua
Trần sai sứ sang Tầu cầu hòa. Vua Nguyên thấy đánh ba lần đều bị đại bại nên
thuận cho hòa.
Năm
sau, vua Nhân Tông cho các tướng bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tầu. Phàn Tiếp
lo sợ thành bệnh mà chết. Duy có Ô-Mã-Nhi là người tàn ác, vua ta cho về, nhưng
sai người đục thuyền cho y chết chìm ngoài biển. Vua Nguyên biết nhưng không
làm gì được. Đúng là “luật Nhơn-Quả”.
Sau
khi toàn thắng, vua khen thưởng cho tất cả tướng sĩ có công. Riêng có một số
người hai lòng thì vua có cách: “Khi quân Nguyên đang cường thịch,
triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về
bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đình thần muốn lục ra để
trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn
sai đem đốt cả tráp đi, cho yên lòng mọi người.
Phụ Lục (Bài
đọc thêm)
1)-Cổ tích
về Lý Thường Kiệt chống Tầu
“Bọ ngựa
chống xe”
Một
hôm Trang công nước Tề xa giá đi săn. Xe ra khỏi thành, đi trên đường cái, có
con bọ ngựa cứ đứng giữa đường, giương càng chực chống lại với cái xe. Tả, hữu
thấy thế kêu lên rằng: “Chết! chết!” Trang công nghe tiếng tưởng sự gì nguy
hiểm, vội vàng bắt xe dừng lại hỏi. Tả hữu thưa:
“Có
con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giơ càng lên muốn chống lại. Giống
bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên, chớ không lui, không chịu lượng sức mình
khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì xem thường, xem khinh, cứ lập tức xông vào.
Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào?!
Trang
công nói: “Hãy khoan! Giống bọ ngựa thế mà đáng kính. Giả thử bây giờ có một
người bị kẻ tàn bạo hà hiếp, không ngại gian nan , không sợ nguy hiểm, nhất
quyết chỉ tiến lên, chọi với cường địch, chết cũng không thoái tị, thì chẳng
đáng nên tôn kính lắm ư?”
Nói
đoạn, Trang-công bảo tránh xe đi sang một bên.
Từ
hôm đó, bọn tướng sĩ Trang công nghe tháy câu chuyện, khi phải đi đánh giặc, là
liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ ngựa./
Hàm thi
ngoại truyện
Lời bàn
(của Ôn Như
Nguyễn văn Ngọc và Tử An Trần lê Nhân)
Có
kẻ cừu địch trước mật, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ
liều xông vào chọi có khi như trứng chọi với đá, nồi đất chọi với nồi đồng, thì
cũng là khờ dại đáng tiếc.
Tuy vậy, có
kẻ hà hiếp mình thậm tệ, mà mình còn đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu
được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục. Nhất là mình lại quả quyết phấn
chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen.
Ôi! Giống bọ
ngựa là giống sâu bọ còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh,
lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang công thực là khéo biết dạy, mà tướng sĩ
Trang công thực là biết nghe ra vậy.
Thầy giáo dạy sử cho tôi năm lớp
Nhì, khi giảng về ông “Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm” lấy câu chuyện “Bọ
ngựa chống xe” để ví với sức mạnh của nước ta thời bấy giờ với quân Tống, giải
thích rằng sức mạnh của vũ khí phải kết hợp với sức mạnh tinh thần. Chính cái
“tinh thần Đại Việt” đời Lý đã tạo nên chiến thắng ở Châu Ung, Châu Khiêm, cũng
như chiến thắng của quân Lý trên sông Như Nguyệt, trận quyết định thắng bại gữa
quân hai nước.
Dĩ
nhiên, chiến thắng của Lý Thường Kiệt và binh lính của ông được vua tôi và dân
chúng Đại Việt ca ngợi. Và đó cũng là nguồn gốc của câu ca dao:
Nực
cười châu chấu đá xe,
Tưởng
là chấu ngã ai ngờ xe nghiêng.
Sau
đây là phần phụ lục nói về chiến công “Phá Tống” của Lý Thường Kiệt và binh
tướng của ông, trích trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
“Nhà
Tống Lấy Đất Quảng Nguyên.
Tống-triều
đươc tin quân nhà Lý sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm
tức-giận lắm, bèn sai Quách Quì làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9
tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước
Nam ta.
“Tháng
chạp năm bính-thìn (1076) quân nhà Tống vào địa-hạt nước
ta. Lý-triều sai Lý thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt
đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở Bắc-ninh, tức là
sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách
Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú-lương.
“Lý
thường Kiệt đem binh-thuyền lên đón đánh không cho quân nhà Tống
sang sông. Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền
của ta thủng nát mất nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy nghìn người. Lúc
bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lý thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ
quân mình có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu
thơ:
Nam-quốc
sơn-hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm -phạm
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư
“Quân-lính
nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đáng giặc, quân nhà Tống không
tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ nhau mãi. Lý-triều sợ
đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh.
“Vua
Tống thấy quân mình không tiến lên được, mà
lại đóng ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước sang hơn 8 vạn,
sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn-binh lui về, chiếm-giữ châu
Quảng-nguyên (bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu Tư-lang (bây giờ
là châu Thượng-lang và Hạ-lang, tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới
tỉnh Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn) và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).
“Đến
năm mậu-ngọ (1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống
và đòi lại những châu huyện ở mạn Quảng-Nguyên.
“Vua
Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý
bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý. Sang năm
kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về nước, tất cả chỉ có 221 người.
Con trai thì
thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: “Thiên-tử binh; 20 tuổi
trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ:
Quan-khách.
“Đất
Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận châu và có 3.000
quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.
“Đến
khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà
Tống trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều
vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng:
Nhân
tham Giao-chỉ tượng.
Khước
thất Quảng-nguyên kim.
“Đến
mùa hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh
sang nhà Tống bàn việc chia địa-giới. Lê văn Thịnh phân-giải mọi lẽ,
nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ đó nước ta và
nước Tàu lại thông sứ như cũ.
“Năm
đinh-mão (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân-tông là Nam bình-vương.
“Nhà
Tống bấy giờ đã suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Mãn-châu) sang lấy
mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu (thuộc
Chiết-giang) gọi là Nam-tống.
(Trần Trọng Kim,
Việt Nam Sử lược)
2)-Giai
thoại về
Hưng Đạo Đại
Vương,
________________________________
Hưng Đạo Đại
Vương, có khi gọi tắt là Hưng Đạo Vương. Người Việt Nam tôn sùng ông, gọi là
“Thánh”, tiếng thông thường là “Đức
Thánh Trần”, không gọi tên vì tránh “phạm húy”, có đền thờ khắp cả nước, từ Nam
chí Bắc. Ngay ở đền Ngọc Sơn, Hà Nội, nơi linh thiêng, người dân Hà Nội thường
đến lễ bái vào dịp Tết hay ngày lễ vía cũng có bàn thờ Ngài. Trên bàn thờ,
tượng Ngài ở giữa, hai bên thờ Phật và thờ thần Tháp Rùa.
Tại sao
tượng Đức Trần Hưng Đạo ở giữa tượng Phật và tượng Thần?
Người Việt
Nam thường kết hợp tinh thần Dân Tộc với tinh thần Tôn Giáo trong “Chủ Nghĩa
Yêu Nước”. Trong suốt những cuộc chiến đấu chống một ngàn năm Bắc thuộc cũng
như thời kỳ một ngàn năm chống xâm lăng để giữ nền tự chủ của người Việt, Tổ
tiên, thần thánh, các bậc anh hùng liệt nữ dù đã quá vãng vẫn cứ luôn luôn xuất
hiện giúp đỡ, hỗ trợ vua quan, quân binh, dân chúng chống lại kẻ thù. Trong các
chiến trận đó, không bao giờ thiếu vắng hương linh, hình ảnh Bà Trưng, Bà
Triệu, Lý Thường Kiệt, Đức Thánh Trần, vua Quang Trung, v.v… Ngay cả trong lần
đánh quân Tống trên sông Như Nguyệt, hai anh em Trương Hống, Trương Hát đã đem
“âm binh” đánh úp trại quân Tống, giúp Lý Thường Kiệt đại thắng trong trận nầy.
Việc thờ
phụng trong Đền Ngọc Sơn, tượng Thánh Trần ở giữa, hai bên là tượng Phật và
Thần Tháp Rùa là có ý nghĩa của nó. Dù tôn giáo, dù thần thánh, một nhân vật
như Đức Thánh Trần, ba lần đánh đuổi quân Mông Cổ, giữ nền độc lập, trăm họ an
vui là người đó được tôn sùng là Thánh, còn hơn cả vua, là người tượng trung
cho “Tinh Thần Dân Tộc”. Người đó phải được tôn vinh hơn hết.
Tổ Quốc trên
hết là Tinh Thần yêu Đất Nước, yêu Dân Tộc của Người Việt Nam. (Chữ Người, tg
cố ý viết hoa)
Đó là niềm
tin tôn giáo, kết hợp với niềm tin Tổ tiên Dân tộc đã nâng cao tinh thần chống
ngoại xâm của người Việt Nam.
Trong Quân
Đội Việt Nam Cộng Hòa, Đức Trần Hưng Đạo là “Thánh Tổ của Quân Chủng” Hải Quân.
Khi Thái sư
Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ là bà Thuận Thiên Công Chúa, chị của Lý
Chiêu Hoàng cho em ruột là vua Trần Thái Tông, khi bà nầy có thai được ba
tháng.
Phẫn uất vì
chuyện nầy, Trần Liễu hợp quân chống lại Thái sư. Vua Trần Thái Tông buồn bã bỏ
lên núi Yên Tử. Về sau, Trần Liễu phải xin vua Trần Thái Tông xá tội. Nhờ vua
Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ mới không giết Trần Liễu.
Tuy nhiên,
Trần Liễu không quên được mối hận nầy. Khi sắp mất, ông trối trăn với con trai
là Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo): “Con không vì cha lấy được thiên hạ,
thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc
Tuấnvâng dạ, nhưng không nghĩ đó là điều phải.
Có lần Hưng
Đạo Vương nói chuyện ấy với hai tì tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai tướng ấy
thưa rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu
ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết
già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”…
Có lần Hưng
Đạo Vương thăm dò ý kiến con trai là Hưng Vũ Vương: “Người xưa có cả
thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?” Hưng Vũ Vương tỏ
rõ lòng “trung quân”: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi cùng một
họ.”
Nhưng khi
Hưng Đạo Vương hỏi dò Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, người con thứ, nghe
xong câu trả lời: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa
cơ dấy vận nên có được cả thiên hạ” Hưng Đạo Vương không khỏi nổi
giận, mắng: “Tên loạn thần là đứa con bất hiếu nầy mà ra.” Hưng
Đạo Vương rút gươm tính chém. Hưng Vũ Vương hay tin, tới khóc lóc xin chịu
tội thay.
Sau đó, ông
dặn Hưng Vũ Vương: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho
Quốc Tảng vào viếng”.
Năm 1285,
khi quân Nguyên tấn công, vua và Thượng Hoàng chạy ra Quảng Ninh, tình thế hiểm
nguy. “Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có
kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương (Trần Liễu – tg), nên có
nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt
nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi
chỉ chống gậy không mà đi.” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Sử còn
chép: “Trần Thánh
Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang
Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ
phương bắc đến. Trần Thái
Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: “Thượng tướng đi
theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”.Trần Hưng
Đạo thưa: “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần
làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi quan gia đi
đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa
trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng quan gia và Thượng tướng.
Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn.”
Mối bất hòa
giữa hai chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa Trần Quang Khải và Trần Hưng
Đạo trở thành một hiểm họa, có thể làm hại cho công cuộc chống quân Nguyên. Vì vậy, Hưng Đạo
Vương tìm cách giải hòa: “Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang
Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội,
Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
“Mình mẩy
cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và
nói:
“Hôm nay
được tắm cho Thượng tướng”.
Quang Khải
cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”.
Từ đó, tình
nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng
võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
(Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Sử cũ cũng
kể rằng: “Bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn (con trai của Trần Quốc Tuấn,
lại có công đánh giặc) được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần
Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách
phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì “sợ
phật ý Quốc Tuấn”.
“Vậy mà khi
quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm
riêng, tin cậy “giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ
vương Trần Khánh Dư” sau khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi
soạn xong “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, thì Trần Khánh Dư cũng là người
được ông chọn để viết bài Tựa cho sách.
Vua phong
Trần Quốc Tuấn làm Thượng Quốc Công, cho phép ông được quyền phong
tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi
tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi
quân Nguyên xâm lăng nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương
quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực,
ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi…
Hưng Đạo
Vương thương yêu và lo lắng cho binh sĩ. Trong Hịch Tướng Sĩ, Vương nói:
“Ta đây,
ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm-đìa, chỉ
căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài
nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi
giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta
cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy
thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết,
lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên,
Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.”
Xem như thế,
ông chăm sóc binh lính khá kỹ, không để họ đói rách, thiếu thốn bao giờ.
Đầu năm
1281, sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long, thái độ rất
ngạo mạn. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Vua
sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào
hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy
thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo
vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời
ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà
sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung
cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc
Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông.”
Binh Pháp:
“Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm. Vua Trần Anh Tông ngự
tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại
sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”.
Hưng
Đạo Vương trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà)
dựng nước, vua nhà Hán cho
quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh
vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì
đánh úp phía sau. Đó là một thời.
“Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng
người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên
dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được
quân Tống. Đó lại
là một thời.
“Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm
địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh
Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao
vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó
là trời xui nên vậy.
“Đại khái,
nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự
thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ
chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn
dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được
đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Những điều
trả lời, cho người đọc thấy Hưng Đạo Vương là người giỏi về lịch sử quân sự. Về
đời Triệu, sách lược chống Hán là là “kế thanh dã”, tức “vườn không nhà trống”
là kế triệt lương thực của địch. Muốn kéo dài chiến tranh, phải có lương từ hậu
phương đưa tới. Công việc nầy khó thực hiện vì quân thì đông, đường thì xa.
“Thực túc binh cường”. Kế nầy là “thực không túc” thì “binh cường” thế nào
đươc! Một mặt thì đánh bằng trận lớn (trường trận), mặt khác thì phục binh (đoản
binh) đánh phía sau. Kế ấy làm cho giặc phải thua.
Đời Tiền Lê,
đời Lý thì dùng kế khỏe đánh mệt. Giặc từ bên Tầu sang, đi đường xa thì mỏi
mệt, tinh thần yếu, còn phía ta thì đánh ngay tại “sân nhà”, vua tôi cùng một
lòng, tức là đoàn kết, thắng giặc không khó là nhờ vậy.
Binh pháp
chính yếu của Hưng Đạo Vương là lấy Đoản Binh chống Trường Trận. Trường
trận là trận lớn, giàn binh ra mà đánh. Đó là thế mạnh của quân đông, vũ khí
lớn và dầy đủ. Xem như trận Đông Bộ Đầu, VNSL của Trần Trọng Kim chép như sau: Thoát
Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-hà có trại quân An- nam đóng giữ, mới sai
quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ
khiếp-sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến
tận chân thành Thăng-long hạ trại.
Quân
địch tiến như vũ bão, hung dữ thì sức mạnh ấy không bền. Khi chúng tiến chậm mà
chắc, ấy là tạo nên cái khó cho việc chống giữ.
Binh
pháp nầy, về sau, người ta thấy Việt Minh, (Võ Nguyên Giáp?) đem áp dụng, nhưng
không bao giờ nói là học từ binh pháp của Hưng Đạo Vương mà nói từ… Liên Xô.
“Kế
thanh dã”, như Hưng Đạo Vương nói, là vườn không nhà trống, có khác chi với chủ
trương “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh. Trong trận Đông Bộ Đầu, quân Mông
dùng đại bác bắn tan tác trại binh của ta, có khác chi “tiền pháo hậu xung” mà
Võ Nguyên Giáp đã áp dụng. Khi còn là giáo sư sử địa, Giáp thường cổ võ cho
chiến thuật nầy, nhưng bấy giờ ông ta nói là của Napoléon. Napoléon sau Trần
Hưng Đạo những hơn năm trăm năm. Còn như dùng “Đoản binh” mà (khống) chế
“trường trận” thì chính là chiến thuật phục kích, du kích, “đánh nhanh rút
nhanh” mà sau nầy, Võ Nguyên Giáp đã đem ra áp dụng cho “bộ đội Việt Minh”.
Những điều nầy, Giáp cho là học ở Liên Xô, ở “người thầy vĩ đại Stalin” chứ
không nói là từ tổ tiên ta bao giờ.
Điều
căn bản, Hưng Đạo Vương trối trăn là “trên dưới một lòng” hay “vua tôi một
lòng”. Hơn thế nữa, Hưng Đạo Vương còn nói tới “Anh em hòa mục” chính là việc
ông đã làm với Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải.
Đó
là điều nói và làm, không hô hào suông, về “Đoàn Kết” vậy
Hưng
Đạo Vương thương yêu binh sĩ, trong Hịch Tướng Sĩ, Hưng Đạo Vương nói:
“Các ngươi ở
cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không
có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng
cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng
nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười.”
Hưng
Đạo Vương coi binh sĩ như thủ túc, như anh em, chỉ sai người lính đi vào chỗ
chết khi nào cần thiết. Ở “Lời thề sông Hóa” khi voi của Vương bị mắc lầy,
Vương phải bỏ voi mà đi cho kịp đánh trận, voi khóc mà Vương cũng ứa nước mắt.
Với súc vật còn thế huống chi là với binh lính, với dân lành.
Trong
chiến tranh Việt Minh chống Pháp, “chiến thuật biển người” thường được đem ra
áp dụng, trận nào cũng vậy chứ không riêng chi trận Điện Biên Phủ, Việt Minh
chết gần mười ngàn binh lính. Phan Đình Giót cùng 16 người nữa được vinh danh
không phải là để cổ vũ cho “chiến thuật biển người” hay sao? Đó là chiến thuật
vô nhân đạo, Cộng Sản mới thường dùng.
Theo
ý kiến của ông Hà Văn Tải, giám đốc đài truyền hình SBTN Boston ngày 25 tháng 2
năm 2013, đối với luật pháp Hoa Kỳ, thì một viên “tướng thí quân” như Võ Nguyên
Giáp đã phải ra tòa án quân sự từ lâu rồi.
Phạm Ngũ Lão
Trong Vũ
Trung tùy Bút, Phạm Đình Hổ thuật lại câu chuyện ông Phạm Ngũ Lão ra mắt Hưng
Đạo Vương khá lạ kỳ:
“Hưng Đạo
Vương cùng tuỳ tùng đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi bên vệ đường
đang đan sọt. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên,
như không để ý đến ai cả. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn
không nhúc nhích, thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời
rằng đang nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết người có tài, Trần
Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh sư. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành
môn khách của Trần Hưng Đạo.”
Sau Hưng Đạo
Vương gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có
quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên.
Sông Bạch
Đằng
Sông Bạch
Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang, (tên nôm: sông Rừng), hiệu là sông
Vân Cừ, là một con sông chảy giữa thị xã
Quảng Yên (Quảng Ninh) và
huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng),
cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng
40 km. Nó nằm trong hệ
thống sông Thái Bình.
Điểm đầu là
phà Rừng – Hải Phòng (ranh giới Hải Phòng và Quảng Ninh).
Điểm cuối là
cửa Nam Triệu – Hải Phòng. Sông có chiều dài 32 km.
Sông Bạch
Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long),
từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và
cuối cùng là sông Hồng đoạn
chảy qua Hà Nội
Sông Bạch
Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam:
Trận
thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938: Ngô Quyền đánh
thắng quân xâm lược Nam Hán,
Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 981: Hoàng đế Lê Đại Hành đập
tan quân Tống xâm
lược
Trận
thủy chiến sông Bạch Đằng năm 1288: Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn đại thắng quân xâm lược Nguyên (trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba).
Hiện ở khu
vực cửa sông Bạch Đằng có 3 ngôi đền thờ 3 vị anh hùng. Đó là đình Hàng Kênh
(Lê Chân, Hải Phòng) thờ Ngô Quyền, đền Vua Lê Đại Hành ở thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên,
Hải Phòng) và đền Trần Hưng Đạo ở phường Yên Giang, (Quảng
Yên, Quảng Ninh).
Bạch Đằng
Giang phú
(Trương Hán
Siêu, danh sĩ nổi tiếng đời Trần, kiệt tác văn
chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bàiBạch Đằng giang
phú rất được lưu truyền…)
Khách có kẻ:
Chèo bể bơi
trăng, buồm mây giang, gió.
Sớm ngọn
Tương kia, chiều hang Vũ nọ.
Vùng vẫy
Giang, Hồ: tiêu dao Ngô, Sở.
Ði cho biết
đây, đi cho biết đó.
Chằm
Vân-mộng chứa ở trong kho tư-tưởng, đã biết bao nhiêu, mà cái trí khí tứ
phương, vẫn còn hăm hở!
Mới học thói
Tử-trương: bốn bể ngao du.
Qua cửa
Ðại-than sang bến Ðông-triều, đến sông Bạch-Ðằng, đứng đỉnh phiến-chu.
Trắng xóa
sông kềnh muôn dặm, xanh rì dặng ác một màu.
Nước trời
lộn sắc, phong cảnh vừa thu.
Ngàn lau
quạnh cõi, bến lách đìu-hiu.
Giáo gậy đầu
sông, cốt khô đầy gò.
Ngậm ngùi
đứng lắng ngắm cuộc sống phù du.
Thương
kẻ anh hùng đâu vắng tá, mà đây dấu vết hãy còn lưu.
Kia kìa, bến
sông, phu lão người đâu.
Lượng trong
bụng ta, chứng có sở cầu.
Hoặc gậy
trống trước, hoặc thuyền bơi sau.
Vái tạ mà
thưa rằng: Đây là chỗ chiến địa vua Trần bắt giặc Nguyên, và là nơi cố-châu của
vua Ngô phá quân Lưu đây.
Đương khi:
Muôn đội
thuyền bày, hai quân giáo chỉ.
Gươm tuốt
sáng lòe, cờ bay đỏ khí!
Tướng Bắc
quân Nam đôi bên đối lũy.
Đã nổi gió
mà bay mây, lại kinh thiên mà động địa.
Kìa quân
Nam-Hán nó mưu sâu, nọ Hồ-Nguyên có sức khỏe.
Nó bảo rằng:
phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
May sao:
Trời giúp
quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích-bích khi
xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp-phù thuở nọ.
Ấy cái nhục
tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta lưu danh thiên
cổ.
Tuy vậy, từ
thuở có trời có đất, vẫn có giang-san.
Trời đặt ra
nơi hiểm-trở, người tính lấy cuộc tồn-an.
Hội này bằng
hội Mạnh-tân, như vương-sự họ Lã; trận nào bằng trận Dung-thủy, như quốc sĩ họ
Hàn.
Kìa trận
Bạch-Đằng này mà đại-thắng, bởi chưng Đại-vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm
còn mãi, bia miệng hao mòn.
Nhớ ai sa
giọt lệ, hổ mình với nước non!
Rồi vừa đi
vừa hát rằng:
Sông Đằng
một dải dài ghê!
Cuồng to
sóng lớn dồn về biển Đông.
Trời Nam
sinh kẻ anh hùng.
Tăm kềnh yên
lặng, non sông vững-vàng
Khách vừa đi
vừa hát rằng:
Vua Trần hai
vị Thánh-quân.
Sông kia còn
dấu tẩy trần giáp-binh
Nghìn xưa
gẫm cuộc thăng-bình.
Tài đâu đất
hiểm, bởi mình đức cao
Hiện
giờ chúng ta có hai bài hát về sông Bạch Đằng, một của Hoàng Quý, một của Lưu
Hữu Phước.
B)-Khởi
nghĩa Lam Sơn,
mười năm
bình định giặc Minh
1)-Nhà Minh
xâm lược
Năm
1400, Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, lên làm vua, chưa được một năm thì nhường
ngôi cho con là Hồ Hán Thương, lên làm Thái Thượng Hoàng. Đặt tên nước là Đại
Ngu (1)
Hồ
Quí Ly sai sứ sang Tầu cầu phong, giả nói là con cháu nhà Trần không còn ai nên
phải làm vua. Vua Thành Tổ nhà Minh phong cho Hồ Hán Thương làm An-Nam Quốc
Vương.
Năm
1404, Trần Khang, xưng là Trần Thiểm Bình, con vua Trần Nghệ Tông, lẻn sang Nam
Kinh, tố cáo việc Hồ Quí Ly cướp ngôi.
Vua
Minh từng có ý muốn xâm lăng nước ta nên lấy cớ ấy để động binh. Ban đầu, vua
Tầu đòi đất Lộc Châu. Hồ Quí Ly không chịu nhưng sau đó phải cắt 59 thôn ở Cổ
Lâu mà nhường cho Tầu. Vua Tầu cũng không bỏ ý đồ xâm lăng nước ta.
Hồ
Quí Ly cho đắp thành Đa-Bang (Sơn Tây bây giờ), để ngăn đường bộ, đóng cọc trên
sông Bạch Hạc để ngăn đường thủy, chia quân đóng các nơi hiểm yếu.
Năm
1406, vua Tầu sai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung chỉ huy 5 ngàn quân đưa Trần
Thiểm Bình về nước.
Hồ
Quí Ly cho quân đón đánh ở Chi Lăng, bắt Trần Thiểm Bình, giết đi, chuẩn bị
binh lính chờ quân Tầu sang để chống lại.
Vua
nhà Minh viện cớ Hồ Hán Thương giết Trần Thiểm Bình, bèn sai Chu Năng làm đại
tướng, cùng Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân làm 2 đạo sang đánh nước ta. Trên
đường đi, Chu Năng chết, Trương Phụ lên thay.
Quân
Trương Phụ theo đường ải Nam Quan mà xuống Nam Việt. Đạo quân của Mộc Thạnh
theo đường Tuyên Quang.
“Giặc ngoài
xâm lăng, toàn dân… hớn hở”
Hồ
Quí Ly cướp ngôi nhà Trần lên làm vua, nên không được lòng dân. Quân nhà Minh
lại dùng kế ly gián vua tôi, “giương cao ngọn cờ chính nghĩa giả dối” Phù
Trần diệt Hồ, nên dân chúng không ủng hộ nhà Hồ. Quân Minh đánh
đâu thắng đó. Quân nhà Hồ phải rút về giữ thành Đa-Bang. Quân Minh thừa thắng
đánh mạnh vào Đa-Bang, thành nầy thất thủ. Quân Minh tiến xuống sông Hồng, đi
đến đâu, đốt phá nhà cửa đến đấy, giết dân lành, bắt đàn bà con gái, rồi đánh
lấy Thăng Long.
Trận Mộc
Phàm Giang
Hồ
Quí Ly cùng Hồ Nguyên Trừng (anh của Hồ Hán Thương) thua trận lui về đóng quân
ở Hoàng Giang. Mộc Thạnh đến đóng ở sông Mộc Phàm. Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiến
thuyền đánh Mộc Thạnh, bị đánh úp, thua bỏ chạy.
Sau
đó, Hồ Nguyên Trừng được các tướng Hồ Đỗ và Hồ Xạ đem quân đến giúp. Nguyên
Trừng rước Hồ Quí Ly từ Thanh Hóa ra, lại đem quân về đóng ở Hoàng Giang, bàn
cách chống giặc.
Trận Hàm Tử
quan
Quân
nhà Hồ bây giờ mạnh lên đôi chút, tiến lên đánh quân Minh ở Hàm Tử. Hai bên
đánh nhau rất dữ, quân nhà Hồ thua to, một số đầu hàng, một số chết đuối, hoặc
bỏ chạy cả.
Hồ
Quí Ly và Hồ Hán Thương chạy về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi tiếp, quân nhà Hồ
không đánh mà tan.
Tướng nhà Hồ
là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm, nói với Hồ Quý Ly rằng: “Nước đã
mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết
đi còn hơn!” Hồ Quý Ly giận lắm, chém Ngụy Thức rồi chạy vào Nghệ An.
Cha con Hồ
Quí Ly bị giặc bắt.
Quân
Tầu chia hai mặt thủy bộ vào đánh Nghệ An, bắt được cha con nhà Hồ trốn ở núi
Cao Vọng. Các quan nhà Hồ, người thì hàng, người bị bắt, người không chịu nhục
nhảy xuống sông tự tử.
Nhà
Hồ làm vua được 7 năm.
Sử
Gia Trần Trọng Kim nhận xét như sau: “Xem công việc của Hồ Quý Ly làm
thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh
tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có
thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại
được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã
có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới
làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng
vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha
con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người!
Nhưng đấy là
cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì
ai gánh vác cho Quý Ly?”
(VNSL Phần 3,
chương 11)
Nhà Hậu
Trần, Giản Định Đế
Vua
Minh giả danh “Phù Trần diệt Hồ” nhưng bắt được người nào con cháu họ Trần thì
giết đi, để có cái cớ vì không còn ai là con cháu họ Trần nên “buộc lòng” phải
cai trị nước ta.
Bấy
giờ, năm 1407, có người con thứ của vua Trần Nghệ Tông tên là Trần
Quỹ, đang trốn tránh ở vùng Ninh Bình, được Trần Triệu Cơ đem binh lính theo
giúp, bèn xưng la Giản Định Đế. Quân Minh đến đánh, Giản Định Đế thua chạy vào
Nghệ An.
Khi
ấy có ông Đặng Tất, đã ra hàng với nhà Minh, được phong làm quan nhưng bỏ quan
theo Giản Định Đế chống quân Minh. Nhà Trần khôi phục được Nghệ An.
Trận Bồ Cô
Mộc
Thạnh và Lữ Nghị đem quân vào đánh. Hai bên giáp chiến ở Bồ Cô. Lữ Nghị bị
chém, Mộc Thạnh rút quân về Nam Định.
Thế
lực đang lên, nhưng Giản Định Đế lại nghe lời dèm pha, bắt Đặng Tất và Nguyễn
Cảnh Chân giết đi, làm cho binh lính bất mãn, chia rẽ.
Vua Trần
Trùng Quang (Quí Khoách)
Con
của Đặng Tất là Đặng Dung, và con của Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị thấy
cha mình bị giết, bèn bỏ Giản Định Đế, đem quân vào Thanh Hóa, rước Trần Quí
Khoách đang ở Hà Tĩnh lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.
Trần
Quí Khoách sai tướng ra bắt Giản Định Đế đem về Nghệ An, tôn lên làm Thái
Thượng hoàng, cùng nhau lo chống giặc.
Trương Phụ
lại sang nước ta
Sau
khi dẹp xong nhà Hồ, Trương Phụ về Tầu. Nay thấy bên ta tình hình không yên,
vua nhà Minh lại sai Trưong Phụ sang lần nữa, lo việc đánh dẹp.
Sang
đến nơi, Trương Phụ đem quân đánh Giản Định Đế. Giản Định thua chạy về Sơn Tây
thì bị bắt, giải về Tầu.
Trương Phụ
là người tàn ác. Sách VNSL viết về y như sau:
“Trương Phụ
thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như
là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người
để lấy đầu. Còn những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều
người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung
ác đắc chí!”
Khi
Trương Phụ đem quân đánh vua Trần Trùng Quang ở Nghệ An, vua Trùng Quang thua,
chạy vào Thuận Hóa. Trước đó, vua Trùnh Quang đã từng sai sứ sang Tầu cầu hòa.
Vua nhà Minh không cho, lại giết sứ thần của vua Trùng Quang. Nay ở thế cùng,
vua Trùng Quang lại sai Nguyễn Biểu sứ, gặp Trương Phụ xin giảng hòa. Trương
Phụ không cho. Nguyễn Biểu giận, mắng Trương Phụ rằng: “Chúng bay trong
bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa
đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị,
rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung
ngược!” Trương Phụ tức giận đem giết đi. (xem Bài đọc thêm về Nguyễn
Biểu).
Năm
1413, Trương Phụ đem quân vào Thuận Hóa đánh vua Hậu Trần. Nguyễn Súy với Đặng
Dung đem quân đánh úp Trương Phụ. Nửa đêm, Đặng Dung vào được thuyền Trương Phụ
nhưng không biết mặt y, nên y nhảy xuống sông trốn mất.
Thế
lực nhà Hậu Trần yếu lắm, bị Trương Phụ đánh đuổi, chạy trốn vào núi, chẳng bao
lâu sau đều bị bắt cả. Trên đường giải về Tầu, vua quan đều tự tử. Nhà Hậu Trần
dứt nghiệp, tính ra chưa được 7 năm
Về
Đặng Dung, VNSL viết như sau:
“Đặng Dung
giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà
họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có
đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
“Ông Đặng
Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn
truyền tụng:
Thế sự du du
nại lão hà!
Vô cùng thiên
địa nhập hàm ca
Thời lai đồ
điếu thành công dị
Sự khứ anh
hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu
hoài phù địa trục
Tẩy binh vô
lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị
phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long
tuyền đái nguyệt ma!
Dịch:
Việc đời bối
rối tuổi già vay
Trời đất vô
cùng một cuộc say
Bần tiện gặp
thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ
bước ngẫm càng cay
Vai khiêng
trái đất mong phò chúa
Giáp gột
sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa
xong đầu đã bạc
Gươm mài
bóng nguyệt biết bao rày.
2)-Lê Lợi
khởi nghĩa
Chính
sách cai trị của nhà Minh rất tàn ác, ngoài sưu cao thuế nặng, còn bắt dân ta
lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, xuống biển mò ngọc trai. Chúng lại còn dùng
“chính sách Hán hóa”, để biến người Việt thành người Tầu, từ phong tục tập
quán, học hành thi cử, tôn giáo, tế tự, v.v… việc gì cũng theo cách thức bên
Tầu cả. Bao nhiêu sách vở của ta chúng buộc đem đốt đi, phá hủy,
hoặc cho chở về Tầu để dùng.
Mười năm
bình định giặc Minh.
Bấy
giờ có người anh hùng nổi lên khởi nghĩa, sau mười năm chống nhau với giặc,
đuổi quân Tầu ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho nước nhà.
Người
ấy là ông Lê Lợi, quê ở Thanh Hóa, làm nghề nông, giàu có, tính tình hào hiệp,
cao thượng, thường hay giúp đỡ người nghèo khó, được nhiều người khâm phục.
Quan nhà Minh nghe tiếng, dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường
nói: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng
thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ cho người!”
Sau
khi chiêu tập hào kiệt, binh mã, tích dấu lương thực, đầu năm 1418, Lê Lợi cùng
Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định
Vương, truyền hịch cho dân chúng biết mục đích của mình.
Ban
đầu, quân lính còn ít, thế lực yếu, nghĩa quân Lê Lợi thường bị quân Tầu đánh
đuổi nhiều lần, khó khăn vất vả, sau mới giành được thế mạnh.
Về Chí Linh
lần thứ nhất
Nghe
tin Lê Lợi khởi nghĩa, tướng Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô (Thanh Hóa), đem quân đến
đánh. Mã Kỳ bị phục binh phải thua, nhưng quân Lê Lợi còn yếu, không chống nỗi
giặc, phải chạy về Chí Linh. Vợ con Lê Lợi bị giặc bắt.
Về Chí Linh
lần thứ hai.
“Hăm mốt Lê
Lai, hăm hai Lê Lợi”
Năm
sau, Bình Định Vương đánh đồn Nga Lạc (Thanh Hóa), giết tướng giặc là Nguyễn
Sao, nhưng lại phải lui về Chí Linh cố thủ lần nữa.
Quân
Minh biết nghĩa quân còn yếu, bèn vây Chí Linh.
Tình
thế bấy giờ nguy cấp, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi:
“Nay thế
trận hiểm nguy, có ai dám làm như Kỷ Tín đời Hán, thân
khoác hoàng bào mà hi sinh thay ta không?”
Lê Lai nói:
“Tình hình
nguy khổn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng, bao công sức đây hãy còn gì.
Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có
tiếc gì?”
Lê Lợi vái
trời khấn rằng:
“Lê Lai có
công đổi áo, nếu sau này khôi phục nghiệp xưa, nếu không nhớ đến công lao ấy,
thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm
thần biến thành dao cùn.”
Lê Lai
đem 2 voi và 500 quân kéo tới trại quân Minh khiêu chiến. Quân Minh
đổ ra đánh. Lê Lai thúc ngựa xông thẳng vào giữa trận hô to:
Ta là chúa
Lam Sơn đây!
Quân Minh
ngỡ là Lê Lợi nên xúm lại. Hai bên đánh nhau
rất quyết liệt. Lê Lai bị quân Minh bắt được đem giết đi.
Năm
1428, sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi phong Lai được truy tặng
là “Sùng trung Đồng đức hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần”
Lê Thái Tổ
mất ngày 22 tháng 8 âm lịch (1433), trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm
giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại
câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.
Bình Định
Vương lui về Lư Sơn
Thoát
được vòng vây, Lê Lợi đem quân về đóng ở Lư Sơn. Bấy giờ nhiều nơi nổi lên
chống giặc, quân Minh phải bận bịu đánh dẹp, nhờ vậy, Lê Lợi có thời gian củng
cố lực lượng của mình.
Sau
đó không lâu, Bình Định Vương trên đường đem quân đánh Tây Đô, lại gặp quân
Minh ở Thi Lang, hai bên đánh nhau. Quân Minh thua chạy, Lê Lợi đem quân về
đóng ở Lỗi Giang.
Gặp Nguyễn
Trãi ở Lỗi Giang.
Nguyễn
Trãi, đổ Thái Học Sinh đời Hồ, là con ông Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh đổ
tiến sĩ, làm quan đời nhà Hồ. Khi nhà Minh sang xâm lăng, bắt được ông, giải về
Tầu. Nguyễn Trãi theo cha khóc lóc. Khi tới cửa Nam Quan, Phi Khanh bảo
con: “Con phải trở về lo rửa hận cho cha, trả thù cho nước, để tiếng
thơm muôn đời, chớ đi theo cha khóc lóc, thử hỏi có ích gì?!”.
Vâng
lời cha, Nguyễn Trãi trở về viết sách bình ngô. Nghe tin Lê Lọi khởi nghĩa,
Nguyễn Trãi tìm đến, gặp Bình Định Vương ở Lỗi Giang, ông dâng sách bình ngô.
Bình Định Vương ưng ý lắm, giữ ông lại làm tham mưu, cùng lo việc chống giặc.
Bình Định
Vương phá quân Trần Trí
Cuối
năm 1421, tướng Minh là Trần Trí đem quân đánh Bình Định Vương. Nhân khi quân
Minh đi đường xa, nhọc mệt, Bình Định Vương cho quân đánh úp, cướp trại giặc,
giết hơn 1 ngàn tên. Hôm sau, Trần Trí dốc toàn lực đánh lại nghĩa quân nhưng
không thắng được, phải lui về Tây Đô.
Lại lui về
Chí Linh lần nữa
Đầu
năm sau, Bình Định Vương đem quân đánh dồn Quan Gia, bị phản công, Bình Định
Vương thua chạy về Khôi Sách. Quân Minh vây Khôi Sách rất ngặt, nghĩa quân phải
liều chết phá vòng vây, chạy về Chí Linh.
Tình
thế Bình Định Vương bấy giờ nguy ngập lắm: Lương thực không có, binh sĩ phải
làm thịt cả voi ngựa mà ăn. Tướng sĩ mỏi mệt. Bình Định Vương phải xin hòa.
Quan nhà Minh thấy đánh Vương mãi cũng không được, bèn cho hòa.
Năm
1423, Bình Định Vương đem quân về đóng ở Lam Sơn. Tướng Minh thường đem biếu
Vương thóc lúa, trâu ngựa, cá mắm. Vương cũng cho đem vàng bạc tạ lễ. Sau bọn
Trần Trí nghi Vương giả hòa, bèn bắt giữ sứ của Vương, Vương bèn tuyệt giao.
Chiếm Nghệ
An
Năm
1424, Bình Định Vương hội các tướng bàn thế đánh quân Minh. Lê Chích đề nghị
hãy chiếm Nghệ An, để làm chỗ cứ địa, sau sẽ đánh ra Bắc. Vương cho là phải.
Quân
Bình Định Vương đánh thắng một loạt: Đánh đồn Đa Căng, Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.
Trần Trí, Phương Chính đem quân cứu viện, bị Vương đánh bại, chém tướng giặc là
Trần Trung, giết hơn 2 ngàn địch, bắt được 1 trăm con ngựa, tiến đánh đồn Trà
Long, Cầm Bành xin hàng.
Thấy
thế lực của Bình Định Vương ngày càng mạnh, bọn quan nhà Minh phải tâu về cho
vua nhà Minh hay. Vua Tầu sai Thưọng thư Trần Hiệp sang lo việc đánh dẹp Lê
Lợi. Trần Hiệp dâng sớ về Tàu kể tội bọn Trần Trí, Phương Chính. Vua Tầu buộc
bọn nầy phải lo đánh dẹp nghĩa quân của Vương. Dó đó, Trần Trí, Phương Chính
đem quân đánh Bình Định Vương.
Biết
giặc sắp đánh, Vương sai Đinh Liệt đem quân phục sẳn ở phía bắc sông Lam, chờ
giặc. Vương lại cho làm nghi binh ở Khả Lưu để đánh lừa giặc. Khi quân Minh
tiến lên thì bị phục binh, Chu Kiệt bị bắt, Hoàng Thành bị chém. Trần Trí phải
lui về giữ Nghệ An.
Năm
sau, Vương đem quân đánh Nghệ An. Dân chúng nghe tin, mừng rỡ, đem trâu rượu
đón rước quân sĩ. Vương ra nghiêm lệnh, không cho binh lính quấy nhiễu dân
chúng. Quan các châu huyện ra hàng, lại xin tình nguyện đem quân đánh giặc
Minh.
Bình
Định Vương cho quân đánh thành Nghệ An. Bọn Trần Trí cố thủ, không dám ra kháng
cự. Tướng Minh là Lý An từ Đông Đô (Thăng Long) đem quân vào cứu. Quân Trần Trí
trong thành nhân thế mới kéo ra. Vương dùng phục binh đánh tan quân giặc. Bọn
Trần Trí thua chạy về Đông Đô. Bọn Lý An rút vào thành Nghệ An cố thủ.
Chiếm Tây Đô
Tướng
nhà Minh là Trương Hùng đem 3 trăm thuyền lương từ Đông Quan vào tiếp tế cho
Nghệ An, bị Đinh Lễ đánh đuổi, cướp hết thuyền lương của giặc. Thừa thế, Đinh
Liễn đuổi Trương Hùng chạy ra Thanh Hóa (Tây Đô). Đinh Liễn vây thành. Được tin
ấy, Vương sai Lưu Nhân Chú, Lê Sát đem quân tiếp ứng.
Lấy Hóa Châu
Vương
sai Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ đem quân đánh Thuận Hóa. Hai tướng của Vương đánh
bại tướng Minh là Nhâm Năng ở Bố Chính (Quảng Bình) rồi chiếm toàn bộ phía nam,
mộ thêm mấy vạn binh lính để tăng cường cho quân của Vương.
Thế
lực của Bình Định Vương ngày càng mạnh, các tướng tôn Vương là “Đại Thiên Hành
Hóa”, có nghĩa là thay Trời làm mọi việc”.
Tiến ra Đông
Đô (Thăng Long)
Đoán
chừng quân Minh tập trung ở Nghệ An, Đông Đô không có bao nhiêu, nên Bình Định
Vương quyết định kéo quân ra chiếm Đông Đô.
Lý
Triện, Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí đem quân đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia
Hưng… để chặn đường quân Minh từ Vân Nam xuống.
Lưu
Nhân Chú, Bùi Bị đánh Thiên Trường, Kiến Xương… để chặn đường Lưỡng Quảng.
Đinh
Lễ, Nguyễn Xí đem quân đánh thẳng vào Đông Quan (Thăng Long).
Lý
Triện, Phạm Văn Xảo sau khi chiếm Quốc Oai, Tam Đái, rồi lại quay về đánh vào
Thăng Long.
Nghe
tin, Trần Trí đem quân về đóng ở Ninh Kiều, bị Lý Triện đánh bại, thua chạy về
Ninh Giang. Có tin quân Vân Nam sang cứu, Lý Triện sai Phạm Văn Xảo đem một
ngàn quân đánh chặn đường, còn Lý Triện, Đỗ Bí đem quân đánh Trần Trí. Trần Trí
thua chạy, Lý Triện đuổi theo, giết hơn 1 ngàn quân Minh, chém tướng
giặc là Vi Lạng. Xong Lý Triện kéo quân đến phụ với Phạm Văn Xảo chặn đường
quân Tầu từ Vân Nam sang. Hai bên giáp chiến, quân cứu viện của Tầu thua, chạy
về giữ thành Tam Giang.
Trần
Trí cầu cứu với quân Phương Chính ở Nghệ An. Phương Chính sai Thái Phúc ở lại
giữ thành còn tự y đem quân theo đường thủy ra đánh Đông Quan.
Vương
sai quân vây chặt Nghệ An, còn Vương đem quân đánh Thanh Hóa, không phá được
thành, Vương về đóng ở Lỗi Giang.
Thấy
thế lực của Bình Định Vương ở nước Nam mạnh lắm, vua nhà Minh bèn sai Chinh Di
Đại Tướng Công Vương Thông cùng Mã Anh đem năm chục ngàn quân sang cứu.
Sang
đến Đông Quan, Vương Thông hội các tướng bàn việc đánh Bình Định Vương.
Lý
Triện, Đỗ Bí dùng phục binh đánh bại quân Mã Kỳ Tam La (ranh giới Thanh Oai và
Từ Liêm), giết hơn 1 ngàn tên, lại đuổi riết tới làng Nhân Mục (huyện Thanh
Trì), bắt sống thêm 5 trăm quân nữa. Mã Kỳ một người, một ngựa chạy thoát được.
Lý
Triện thừa thế đem quân đánh Phương Chính, Phương Chính sợ, chưa đánh đã lui.
Trận Tụy
Động (1426)
Khi
Lý Triện đem quân đánh Vương Thông, quân Minh giả bộ chạy để dùng phục binh
đánh quân ta. Lý Triện thua, gọi Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.
Đinh
Lễ và Nguyễn Xí đem quân đến, giàn trận ở Tụy Động và Chúc Động. Bấy giờ cả 3
tướng của Bình Định Vương biết mưu của Vương Thông sẽ đánh úp, bèn dùng mưu ấy
mà đánh lại quân Vương Thông.
Quả
nhiên, quân nhà Minh mắc mưu, bị đại bại. Thượng thư Trần Hiệp và Lý Lượng bị
chém, binh lính chết hơn 5 chục ngàn, bị bắt hơn 10 ngàn, khí giới mất rất
nhiều. Vương Thông, Mã Kỳ, Phương Chính rút vào thành Đông Quan cố thủ. Đinh Lễ
vây thành rồi báo tin mừng cho Bình Định Vương ở Lỗi Giang biết.
Bình
Định Vương cho quân giữ các mặt rồi tự mình đem quân đóng gần Đông Quan (Thăng
Long). Sau trận Tụy Động nầy, Bình Định Vương nắm chắc phần thắng trong tay.
Vây Đông
Quan. Vương Thông xin bãi binh
Vương
Thông thấy đánh không lại Bình Định Vương, bèn xin cho lập người họ Trần lên
làm vua để bãi binh. Bình Định Vương cũng nghĩ đánh nhau mãi chỉ làm cho binh
sĩ và dân chúng khốn khổ nên đồng ý, cho lập Trần Cao, cháu ba đời vua Trần
Nghệ Tông lên làm vua. Bình Định Vương tự xưng là Vệ Quốc Công. Chờ ngày Vương
Thông rút quân về nước.
Bấy
giờ có mấy người nước Nam như Lương Nhữ Hốt, Trần Phong từng theo quân Minh, sợ
Vương Thông về nước thì sẽ bị tội, bèn xúi Vương Thông đừng hòa. Vương Thông
lén cho người về Tầu xin viện binh.
Bình
Định Vương bắt được người đua thư, bèn cho quân đánh chiếm các thành trì quân
Minh còn giữ được. Tướng nhà Minh là Thái Phúc, Tiết Tụ đều ra hàng cả. Xong,
Bình Định Vương sai tướng đánh vào thành Đông Quan.
Liễu Thăng
bị giết ở núi Mã Yên Sơn (Chi Lăng)
Nghe
tin Vương Thông bại trận, năm 1427, vua nhà Minh vội sai Chinh lỗ Phó Tướng
quân An Viễn hầu Liễu Thăng, cùng các tướng Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh,
Hoàng Phúc… chỉ huy một trăm ngàn quân theo đường Quảng Tây xuống đánh Bình
Định Vương. Vua Minh lại sai đại tướng Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung tiến vào
nước ta theo đường Vân Nam.
Bấy
giờ Bình Định Vương nghĩ rằng không cần đánh Đông Quan, vì nếu đánh bại viện
binh thì bọn trong thành ắt phải đầu hàng. Chiến thuật của Bình Định Vương là
“dĩ dật đãi lao”, nghĩa là lấy quân khỏe để đánh quân mệt. Xong, Bình Định Vương
cho quân đóng giữ các nơi hiểm yếu.
Tướng
của Bình Định Vương là Trần Lựu đang giữ ải Ba Lũy, thấy quân Tầu đến, liền lui
về giữ ải Ai Lưu. Giặc đánh Ai Lưu, Trần Lựu lui về Chi Lăng. Quân Minh tiến
đến đâu, quân Nam rút lui, không chống cự gì cả, làm cho Liễu Thăng lầm tưởng
quân Nam hèn nhát. Bình Định Vương lại làm kế nhát sợ, sai người đưa thư cho
Liễu Thăng xin lập Trần Cao làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng ỷ thế đang
thắng, không thèm đọc thư, cứ cho quân tiến tới.
Khi
Liễu Thăng tiến gần đến ải Chi Lăng, Trần Lựu đem quân ra đánh rồi giả thua
chạy. Liễu Thăng đắc ý, đem 100 quân kỵ đi trước, để đại quân đi sau. Đi được
môt lúc, Liễu Thăng đến chỗ sình lầy, ngựa không đi được thì phục binh đổ ra
đánh, chém chết Liễu Thăng. Chỗ ấy là núi Đạo Mã Pha, bây giờ có tên là Mã Yên
Sơn. Hôm ấy là 20 tháng 9 năm Đinh Mùi. Quân Minh đại bại.
Lê
Sát, Trần Lựu, Lê Lý cùng đem quân đánh đuổi quân Minh, chém chết Lương Minh.
Lý Khánh tự tử. Hoàng Phúc, Thôi Tụ tính chạy về Xương Giang, nhưng thành ấy đã
bị Trần Nguyên Hãn chiếm mất rồi, phải lập trại giữa đồng để chống giữ.
Thừa
thắng Bình Định Vương sai Trần Nguyên Hãn, Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí, một
mặt thì chặn đường lương thực, một mặt tấn công quân Hoàng Phúc, Thôi Tụ. Hoàng
Phúc bị bắt, Thôi Tụ bị giết.
Bình
Dịnh Vương lại sai thả những tên tì tướng của Liễu Thăng sai đến báo tin Liễu
Thăng bị giết cho Mộc Thạnh hay. Mộc Thạnh sợ hãi cho quân rút chạy về Tầu.
Bình
Định Vương sai đem hổ phù và hai dấu đài ngân của Liễu Thăng đưa vào thành cho
Vương Thông hay. Biết viện binh đã thua, Vương Thông, một lần nữa, lại xin hòa.
Chính sách
giao thiệp khôn khéo của Bình Định Vương
Bấy giờ có
người tâu với Bình Định Vương, ngày trước người Minh tàn ác lắm, nên giết cả
đi. Bình Định Vương bảo:“Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người,
nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã
hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà
chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người
sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền
thiên cổ trong sử xanh”.
Xong, bình
Định Vương cấp cho Phương Chính, Mã Kỳ quản lính 500 chiếc thuyền theo đưòng
thủy mà về nước; cấp cho Hoàng Phúc, Sơn Thọ lương thảo theo đường bộ về nước.
Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.
Đánh dẹp
quân giặc xong rồi, Bình Định Vương sai Nguyễn Trãi viết tờ “Bình Ngô Đại Cáo”
báo cho dân chúng đều biết.
(1)-Tổ tiên
Hồ Quí Ly gốc là người nước Ngu (Chiết Giang) bên Tầu. Khi làm vua. Ông đặt tên
nước là Đại Ngu.
(2) Phụ Lục
Vua Trần
Trùng Quang
Tiễn Nguyễn
Biểu Đi Sứ
Mấy
vần thơ cũ ngợi hoàng hoa
Trịnh
trọng rầy nhân dựng khúc ca
Chiếu
phượng mười hàng tơ cặn kẽ
Vó
câu ngàn dặm tuyết xông pha
Tang
bồng đã bấm lòng khi trẻ
Khương
quế thêm cay tính tuổi già
Việc
nước một mai công ngõ vẹn
Gác
lân danh tiếng dọi lầu xa
Vài
hàng lịch sử:
“Tháng
tư năm quí tỵ (1413) Trương Phụ đem quân đánh Nghệ An, quân Quí Khoách (vua Hậu
Trần Trùng Quang – tg), bấy giờ mười phần chỉ còn ba bốn, lương thực lại không
có, phải bỏ chạy vào Hóa châu.
“Trước
Quí Khoách đã mấy lần cho người sang Tầu cầu phong, Minh-đế không cho, đem giết
sứ thần đi. Nay Quí Khoách lại sai Nguyễn Biểu ra cầu hòa với Trương Phụ.
Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: “Chúng
bay trong bụng thì chỉ lo đưòng chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân
nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sáng lập họ Trần, sau lại đặt quận, huyện
để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân, chúng bay thật là
đồ ăn cướp hung-ngược!” Trương Phụ tức giận đem giết đi.”
(Việt Nam Sử Lược –
Trần Trọng Kim – C. 1 tr. 204)
Cũng
theo sách nói trên của Dương Quảng Hàm, trang 294, ông viết:
“Lại
theo sử CM – (q. 12 tr. 36b – 37a) thì “năm Trùng Quang thứ 5 (1413), mùa hạ,
tháng tư. Tướng nhà Minh là Trương Phụ đánh Nghệ An, vua Quí Khoách chạy vào
Hóa châu… sai người bầy tôi là Nguyễn Biểu đi cầu phong, đem phương vật đến
Nghệ An để tặng. Phụ giữ ông lại, ông giận mắng rằng: “Trong thì mưu kế đánh
lấy nước người, ngoài thì phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói rằng lập con
cháu nhà Trần, nay lại chia đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại
còn tàn hại sinh dân, thật là đồ ngược tặc.” Phụ giận đem giết đi.
Ở
phần ghi chú sách nầy, Dương Quảng Hàm có giới thiệu tiểu sử Nguyễn Biểu như
sau:
“Nguyễn
Biểu: Người xả Bình-hồ, huyện Chi-la, Nghệ-an (nay là xã Yên-hồ, huyện La-sơn,
phủ Đức-thọ, tỉnh Hà-tĩnh). Đậu thái-học sinh đời nhà Trần, sung chức Điện-tiền
thị-ngự-sử.
Trương Phụ cho cột Nguyễn Biểu vào
cây cột cầu ở chùa Yên Quốc. Nguyễn Biểu không ngớt chưởi mắng Trương Phụ. Đến
khi nước thủy triều lên, Nguyễn Biểu chết ngộp vì nước lớn. Do sự kiện nầy nên
vị sư chùa Yên Quốc có làm bài kệ khi làm lễ tế Nguyễn Biểu.
Giải
thích bài thơ:
Hoàng
Hoa:
Sách
“Điển Cố Văn Học” của Đinh Gia Khánh giải thích:
1.-
Tức Hoàng hoàng giả hoa (Những bông hoa rực rở khắp nơi) tên một thiên trong
thơ Tiểu Nhã (kinh Thi), kể việc vua tiễn biệt dặn dò sứ thần sắp lên đường.
Mấy
vần thơ cũ ngợi Hoàng hoa
Trịnh
trọng rày nhân dắng khúc ca.
(Trần
Trùng Quang)
2.-
Nơi đồn thú xa xôi, Hoàng hoa là hoa cúc. Hoa cúc nở vào mùa thu, tháng chín.
Quân lính thời xưa ra đi phòng thủ ở các đồn ải xa vào mùa thu năm trước thì
đến mùa thu năm sau lại được về. Như vậy gọi là hoàng hoa thú. Thơ Thẩm Thuyên
Kỳ: “Văn đạo hoàng hoa thú, Tần niên bất giải binh” (Nghe nói việc đi thú, mà
mấy năm không giải binh).
Xót
người lần lữa ải xa,
Xót
người nương chốn hoàng hoa dặm dài.
(Chinh
Phụ ngâm)
Hai
câu đề ý nói nay nhân chuyện đi sứ cầu hòa, vua, với vẻ nghiêm trọng. “Dắng”,
tiếng Việt cổ, là “dặn dò” mấy lời.
Chiếu
phượng: Chiếu của nhà vua, (có vẽ hình chim phượng), ghi những lời dặn cặn kẻ
chân tóc kẻ tơ (Tơ cặn kẻ).
Vó
câu: Vó ngựa câu (loại ngựa cỡi đi xa, khác với Vó ký là ngựa ký, loài dùng để
kéo xe nặng nhọc: “Xe muối nặng nề thương vó ký” – Ngô Đình Diệm – Xem so sánh
hai bài thơ cụ Hồ và thơ cụ Ngô, cùng tác giả). Ngàn dặm: Ý nói đi xa. Tuyết
xông pha: Xông pha sương tuyết, nghĩa bóng phải chịu cảnh “dầm sương giải
tuyết”, tức sự cực khổ.
Tang
bồng: Cây cung bằng gỗ dâu (Tang), tên bằng cỏ bồng.
Sách
Điển Cố Văn Học nói trên, trang 481, giải thích:
Tang
Bồng:
Cung
bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng.
Theo
Kinh Lễ khi nhà vua sinh con trai, quan coi việc bắn lấy cung bằng gỗ dâu và có
tên bằng cỏ bồng, bắn bốn phát ra bốn phương, và một phát lên trời, một phát
xuống đất, ngụ ý rằng người làm trai chí lớn ở bốn phương, tung hoành giữa trời
đất, ôm hoài bảo giúp nước giúp đời.
Nói
về chí làm trai.
Bấy lâu
đèn sách ra công
Con đà nên
chữ tang bồng nầy chăng.
(Nguyễn Đình Chiểu)”
Cũng
có khi gọi là tang bồng hồ thỉ. Thơ Nguyễn Công Trứ có câu:
Tang
bồng hồ thỉ nam nhi trái
Cái
công danh là cái nợ nần.
Cũng
có khi gọi là Hồ thỉ:
Dạy
rằng: Hồ thỉ chí trai
Tìm
thầy hỏi bạn chi hoài, bỗng dưng
(Nguyễn
Huy Tự)
Ngày
xưa, bên Tàu cũng có tục mỗi khi trong nhà sinh con trai thì treo một cành dâu
trước cửa.
(Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa cũng có tục, sau mấy tuần huấn nhục, khóa sinh
phải trèo lên đỉnh Lâm Viên rồi mới làm lễ nhập khóa học. Trong lễ nầy, người
trưởng tràng, thay mặt khóa sinh, bắn bốn mũi tên vào bốn hướng để tỏ rõ cái
chí khí của người làm trai).
Nhà
vua khen ngợi Nguyễn Biểu ngay khi còn trẻ đã có cái chí khí của người con
trai.
Khương
Quế: Khương là gừng, quế là quế. Gừng và quế đều cay.
Sách
Điển Cố Văn học giải thích:
“Lý
đạo trường biên: “Khương quế chi tính đáo lão dũ lạt” Tính chất của gừng và quế
đến khi già lại càng cay.
Nói
về người già càng hăng hái.
Hai
câu kết: Hứa hẹn khen thưởng. Một mai khi việc nước vẹn toàn, sẽ được ghi công
ở Kỳ Lân Các, tức là gác công thần.
Việt
Nam Sử Lược Trần Trọng Kim viết:
“Vua
lại sai văn thần ghi-chép công-trạng của các tướng, hợp biên làm cuốn sách gọi
là “Trung hưng thực-lục” và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác
công thần.
Câu
cuối cùng ý nói như việc làm của vua nhà Trần (Tiên đế) đã từng làm với các
tướng có công trạng trong việc đánh đuổi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta ngày
trước.
Bài thứ tư:
Bài họa Của
Nguyễn Biểu:
Tiếng
ngọc từ vâng trước bệ hoa
Ngóng
tai đồng vọng thuở thi ca
Đường
mây vó ký lần lần trải
Ải
tuyết cờ mao thức thức pha
Há
một cung tên lồng chí trẻ
Bội
mười vàng sắt đúc gan già
Hổ
mình vả thiếu tài chuyên đối
Dịch
lộ ba ngàn dám ngại xa
Giải thích:
Trước
bệ hoa (bệ rồng, bệ vua ngồi), (Nguyễn Biểu) nghe tiếng vua dặn dò (tiếng
ngọc), ngóng tai nghe lời vua dạy bảo. Đường đi sứ, thường gọi theo nghĩa bóng
là đường mây. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu “Sứ trời sớm giục đường mây” cũng có
ý nghĩa như thế. Vó ký là vó con ngựa ký, loài ngựa dùng để kéo xe nặng nhọc.
“Xe muối nhọc nhằn thương vó ký” – Ngô Đình Diệm – Nơi biên ải có cờ treo, nơi
người đi sứ phải vượt qua. Lúc trẻ đã mang dòng máu anh hùng (cung tên). Càng
về già thì ý chí càng vững, gan càng bền. Chỉ sợ mình thiếu tài ứng đối khi đi
sứ chứ không ngần ngại đường đi sứ xa xôi khó nhọc, nguy hiểm.
Bài thứ năm:
Cổ Đầu Người
Ngọc
thiện trân tu đã đủ mùi
Gia
hào thêm có cổ đầu người
Nem
cuông chã phượng còn thua béo
Thịt
gũ gan lân cũng kém tươi
Ca
lối lộc minh so cũng một
Đọ
bề vàng sắt bội hơn mười
Kia
kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng
sĩ như Phàn tiếng để đời
Câu chuyện
lịch sử và giải thích:
Như
phần trên đã nói, trước tình thế khó khăn, vua Trần Trùng Quang sai Nguyễn Biểu
đi sứ cầu hòa. Trương Phụ không cho hòa, còn bắt giữ Nguyễn Biểu, khiến ông tức
giận chưởi mắng bọn tướng Tàu giả nhân giả nghĩa. Trương Phụ giận lắm, nhưng
trước khi giết Nguyễn Biểu, Phụ muốn thử cái gan dạ của người Nam như thế nào
bèn sai nấu một cái đầu lâu trong nồi mời Nguyễn Biểu ăn. Nguyễn Biểu biết ý
Trương Phụ và muốn tỏ rõ cho y thấy người Nam gan dạ như thế nào, bèn lấy đũa
gắp hai con mắt ăn trước, nhắp chén rượu làm bài thơ “Cổ đầu người”.
Cổ là một
bữa cổ, bữa tiệc. Ngọc thiện trân tu là những món ăn quí hiếm, ông ăn đã đủ mùi
rồi; nay ăn thêm cổ đầu người cho biết như thế nào. Món ăn nầy béo lắm, nem
công (cuông – tiếng cổ), chã phượng còn thua. Thịt con gũ, gan con lân cũng
không tươi bằng. So với lộc minh cũng chỉ là một; đọ với vàng sắt, miếng ăn nầy
hơn thập phần. Món ăn ngon ngọt như thịt vai con lợn. Ăn một miếng để tỏ cái
tiếng như Phàn lại đời sau.
Phàn
là Phàn Khoái, dũng tướng của vua Hán Cao tổ và cũng là em rể của nhà vua. Lúc
trẻ, ông bán thịt chó ở chợ, sau theo phò Hán Cao tổ đánh nhau với nhà Tần, lập
được nhiều công lớn. Khi vua Hán hội ẩm với Hạng Vũ ở Hồng Môn, quân sư của Vũ
là Phạm Tăng xúi Vũ nên giết vua Hán để tránh hậu họa.
Trương Lương
là tham mưu của Hán Cao tổ, biết ý Phạm Tăng, bàn với Phàn Khoái tìm cách bảo
vệ vua. Khoái cầm kiếm đi vào nơi hội ẩm, trừng mắt nhìn Hạng Vũ, làm cho Vũ có
ý sợ và kính phục. Vũ sai đem tặng cho Phàn Khoái một đấu rượu và một vai lợn
sống. Khoái uống một hơi hết đấu rượu rồi tuốt kiếm xẻ thịt ăn sống. Hạng Vũ
khen Phàn Khoái là tráng sĩ. (theo Điển Cố Văn Học)
Bài
Văn Tế Cá Sấu
Ngạc
ngư kia hỡi mày có hay
Biển
đông rộng rãi là nơi mày
Phú
lương đây thuộc về thánh vực
Lạc
lối đâu mà lại đến đây
Há
chẳng biết rằng nước Việt xưa
Dân
quen chài lưới chẳng tay vừa
Xuống
nước giao long cũng phải chừa
Thánh
thần nối dõi bản triều nay
Dấy
từ Hải ấp ngôi trời thay
Võ
công lừng lẫy bốn phương tĩnh
Biển
lặng sông trong mới có rày
Hùm
thiêng ra dấu dân cày cấy
Nhân
vật đều yên đâu ở đấy
Ta
vâng đế mệnh bảo cho mày
Hãy
về biển đông mà vùng vẫy.
Giải
nghĩa:
Ý
tưởng bài nầy tương đối rõ ràng. Mở đầu, bài văn tế xác định rõ vị trí: Cá sấu
thì ở ngoài biển khơi, nơi nầy là thánh vực, tức lãnh thổ nhà vua, cá sấu không
ở được. Nguởi Việt từ xưa đã quen nghề chài lưới, giao long cũng phải sợ. Đất
nước nầy nổi tiếng lừng lậy khap bốn phương, đời sống thanh bình. Nay ta được
lệnh ra báo cho mầy để biết mà hãy về biển đông.
Tôi
chưa tìm được “bài kệ của vị sư Chùa Yên Quốc tế Nguyễn Biểu.”
(Trích “Những bài thơ nôm đầu tiên
trong Văn học Việt Nam” – cùng tác giả)
Đoạn
thơ sau đây được coi là lời giã biệt hào hùng và khí phách giữa Nguyễn Phi
Khanh và Nguyễn Trãi, trước khi cha con chia tay nhau ở Ải Nam Quan.
(3) Hận Nam
Quan
“Con yêu
quý, chớ xuôi lòng mềm yếu,
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
Con về đi, tận trung là tận hiếu,
Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang,
Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt
Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh.
Về ngay đi, rồi chí nguyện công thành.
Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm,
Chỉ nghiến răng vung kiếm quét quân thù,
Trãi! Con ơi, tương lai đầy ánh sáng,
Cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng
Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê.
Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm,
Rời Nam Quan, theo gió con bay về.
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
Con về đi, tận trung là tận hiếu,
Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang,
Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt
Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh.
Về ngay đi, rồi chí nguyện công thành.
Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm,
Chỉ nghiến răng vung kiếm quét quân thù,
Trãi! Con ơi, tương lai đầy ánh sáng,
Cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng
Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê.
Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm,
Rời Nam Quan, theo gió con bay về.
Ôi! Sung
sướng, trời cao chưa nỡ tắt,
Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan.
Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,
Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.
Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan.
Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,
Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.
(Hận Nam Quan – Kịch thơ –
Hoàng Cầm)
(4) Theo
sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của Phan Huy Chú thì những sách của
nước ta bị bọn quan lại lấy về Tầu gồm có:
- Hình Thư,
của vua Thái Tông nhà Lý 3 quyển.
- Quốc Triều
Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển
- Hình Luật,
của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển
- Thường Lễ,
niên hiệu Kiến Trung 10 quyển
- Khóa Hư
Tập 1 quyển
- Ngự Thi 1
quyển
- Di Hậu
Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển
- Cơ Cầu Lục
1 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Trung Hưng
Thực Lục, của Trần Nhân Tông 2 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Thủy Vân
Tùy Bút, của Trần Anh Tông 2 quyển
- Thi Tập,
của Trần Minh Tông 1 quyển
- Trần Triều
Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển
- Bảo Hòa
Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông 8 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Binh Gia
Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Vạn Kiếp
Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Tứ Thư
Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ
- Tiều Ẩn
Thi 1 tập
- Sầm Lâu
Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển
- Lạc Đạo
Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển
- Băng Hồ
Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển
- Giới Hiên
Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển
- Giáp Thạch
Tập, của Phạm Sư Mạnh 1 quyển
- Cúc Đường
Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển
- Thảo Nhàn
Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ 1 quyển
- Việt Nam
Thế Chí 1 bộ
- Việt Sử
Cương Mục 1 bộ
- Đại Việt
Sử Ký, của Lê Văn Hưu 30 quyển
- Nhị Khê
Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh 1 quyển
- Phi Sa
Tập, của Hàn Thuyên 1 quyển
- Việt Điện
U Linh Tập, của Lý Tế Xuyên 1 quyển
Những sách
ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái
thiệt hại cho người nước mình.
(5) Bình
Ngô Đại Cáo
Tượng mảng:
Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn
xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ
Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một
phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ
uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông
Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.
Vừa rồi:
Vì họ Hồ
chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ
tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa
ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm vét không
sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào
lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên
liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai
đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ
mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay!
nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn
được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn
dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống
chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật
nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã
tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn
mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân
thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt
như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi
duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy
thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng
ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương. Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã
như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó
khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời
muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng
gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng
vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một
lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta
được luôn.
Dọn hay:
Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy,
miền Trà Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí,
Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây
Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy
thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương
lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã
trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng
đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ
đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ
vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ
ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng,
đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san;
lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm
để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.
Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai
mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang
sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm
tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài
đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch
không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô,
tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói
để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than
máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay! Sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay! Sáng
nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh
tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành
xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành
cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tôi;
thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho
năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh,
phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa,
ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là
mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc
từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn
thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn
thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một
mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá
cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.
Độc
giả hãy đọc đoạn văn sau đây:
“Chúng tôi
khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng
Tạo Hóa ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền
sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
(Câu mở đầu trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hợp Chủng
Quốc Hoa Kỳ)
Đoạn mở đầu
của Bình Ngô Đại Cáo, cũng như câu mở đầu bản Tuyên Ngô Độc Lập của Mỹ, mặc dầu
cách nhau ba trăm năm, nhưng ý tưởng của Nguyễn Trãi và Jefferson không những
không xa nhau, đông tây không hòa hợp mà lại rất nhân bản, đầy những ý tưởng
công bằng, hợp lý đối với sự tiến hóa của nhân loại. Công bằng, hạnh phúc, tự
do là những tiêu chuẩn để làm Người. Dù có khoảng cách thời gian và văn hóa,
trên căn bản ấy, Đông Tây cũng chỉ là một./
C)-Chống Tầu
đời Mạc
Nhà Mạc với
Nhà Minh.
Mạc
Đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc Đỉnh Chi, quê ở Hải Dương, làm nghề đánh cá,
thi đổ Đô Lực Sĩ (cử nhân võ), giữ chức Đô Chỉ Huy Sứ thời Lê mạt.
Năm
1527, Mặc Đăng Dung buộc vua Lê Cung Hoàng thảo chiếu truyền ngôi lại cho ông.
Sau đó, Lê Cung Hoàng, Hoàng Thái hậu và những quan trung thành với nhà Lê,
không tự tử thì cũng đều bị giết cả.
Bấy
giờ có vài quan cũ nhà Lê trốn sang Tầu cầu cứu và xin viện binh.
Vua
nhà Minh bèn động binh.
Thật
ra, vua nhà Minh chẳng vì tình nghĩa với nhà Lê. Trong lòng vốn sẳn có tham
vọng xâm chiếm nước ta, nay nhân cơ hội nầy để thực hiện mưu đồ đó mà thôi.
Năm
1537, vua nhà Minh sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn đem quân đóng gần ải Nam Quan rồi
truyền hịch sang nước Nam, nói hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung đem nạp thì
được thưởng. Mặt khác, bọn họ sai người sang nói với Mạc Đăng Dung biểu hễ đem
nộp sổ đất đai và dân số và chịu tội thì tha cho tội chết.
Mạc
Đăng Dung bèn sai Nguyễn Văn Thái đi sứ sang Tầu xin cầu hòa.
Đến
năm 1540, khi thấy quân Tầu sửa soạn sang đánh, Mạc Đăng Dung sợ quá, bèn sai
Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế, cùng các quan, lên ải Nam
Quan, tự trói mình, lạy phục xuống đất, nộp sổ đất đai, dân số cùng dâng đất
năm động để xin hàng. Các động đó là: Tê Phù, Kim Lạc, Cổ Xung, Liễu Cát, La
Phù (1). Mặt khác, lại đem vàng bạc hối lộ cho quan nhà Minh.
Quan
nhà Minh bề ngoài thì giả bộ hống hách, nhưng cái gương Liễu Thăng chưa mờ
trong trí họ. Hơn thế nữa, đã nhận vàng bạc hối lộ rồi thì còn gì gọi là “vì
nước” nữa, cho nên bọn quan lại nầy làm sớ dâng lên vua Minh phong cho Mạc Đăng
Dung chức Đô Thống Sứ, không phong vương.
Trong
sách VNSL, Trần Trọng Kim phê phán Mạc Đăng Dung như sau:
“Mạc
đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người
nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà
dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái
danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở
trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân
mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ.
Đối với vua
là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là
không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được
giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái
cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt
được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.
Sau
khi nhà Lê trung hưng, họ Mạc bị đánh đuổi lên Cao Bằng, phải dựa thế vua nhà
Minh sống còn thêm ba đời nữa mới dứt.
(1)-Theo Sử
gia Trần Quốc Vượng (miền Bắc VN) thì đất 5 động do Mạc Đăng Dung dâng cho vua
nhà Minh, chỉ là đất khống, nghĩa là đất chỉ có trên giấy tờ, không có trên
thực địa. Khi đi nhận đất, không thấy đất đó ở đâu cả, quan nhà Minh mới biết
bị gạt, giận lắm, nhưng lại được Mạc Đang Dung cho người đút lót vàng bạc nên
cũng thôi. Vã lại, bấy giờ nếu có muốn đánh Mạc Đăng Dung thì phải huy động dân
binh các vùng Lưỡng Quảng và Vân Nam, việc ấy không phải là không có nhiều khó
khăn.
D)-Quang
Trung
đại phá quân
Thanh
Nguyễn Huệ
ra Bắc Hà
Sau
khi chiếm được thành Phú Xuân rồi, Nguyễn Huệ ý muốn dung quân tại đó. Nếu được
Nguyễn Nhạc phong cho chức Bắc Bình Vương thì lãnh thổ của ông là từ đèo Hải
Vân với song La Hà ở Hà Tĩnh.
Bấy
giờ có Nguyễn Hữu Chỉnh là người Bắc Hà đi theo Nguyễn Hữu Chỉnh khuyên Nguyễn
Huệ đem quân đánh Bác Hà, Nguyễn Huệ ngheo theo nhưng ý thì vẫn muốn đánh dẹp
họ Trịnh, hiếp đáp vua Lê đã mấy trăm năm nay, với danh nghĩa “Phù Lê diệt
Trịnh”, chứ không có ý lấy đất của nhà Lê. Sau khi Trịnh Khải tự tử vì bị bắt,
dẹp yên họ Trịnh, Nguyễn Huệ bái yết vua Lê Hiển Tông, được vua Lê gả Ngọc Hân
Công Chúa cho, bèn giao quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê rồi rút quân về
Thuận Hóa. Ấy là năm 1786.
Khi
vua Hiển Tông băng hà, Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, tức là Lê Chiêu Thống. Trịnh
Bồng lại về nắm quyền hành. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đánh Trịnh Bồng, rồi
chỉnh lại chuyên quyền. Sau đó, Nguyễn Hữu Chỉnh bị Vũ Văn Nhậm giết đi, thì Lê
Chiêu Thống bỏ trốn. Nguyễn Huệ lại ra Bắc lần nữa, lại giao quyền cho Lê Duy
Cẩn đang làm giám quốc. Nguyễn Hu ệ lại về Thuận Hóa.
Lê Chiêu
Thống cầu cứu nhà Thanh
Vua
Lê Chiêu Thống chạy lên trốn ở vùng Lạng Sơn, còn Hoàng Thái hậu thì đem thái
tử sang Tầu xin đem binh cứu viện.
Vua
quan nhà Thanh bấy lâu nay vẫn có ý dòm ngó nước ta, nay nhân cơ hội nầy, Tổng
đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị, làm sớ tâu với vua nhà Thanh nói rằng: “Họ
Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu
cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu
sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường.”
Người
Tầu không bao giờ bỏ cái ý nghĩ “Nước Nam là đất cũ của nước Tầu”, trong khi
thực tế thì “Lưỡng Quảng là đất cũ của người nước Nam.”
Năm
1788, vua Càn Long nhà Thanh nghe lời Tôn Sĩ Nghị bèn lấy binh ở Quảng Đông,
Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam hia làm 3 đạo xâm lăng nước ta: Một đạo đi đường
Tuyên Quang, một đạo di đường Cao Bằng do Sầm Nghi Đống chỉ huy. Tôn Sĩ Nghị
cùng Hứa Thế Hanh chỉ huy đạo theo đường Lạng Sơn. Tổng Cộng phía Tầu có gần ba
trăm ngàn quân.
Tướng
Tây Sơn là Ngô Văn Sở đang đóng ở thành Thăng Long, nghe tin quân Tầu sang,
biết thế chống không lại, bèn vội dâng sớ về Phú Xuân cho Nguyẽn Huệ hay, rồi
kéo binh vè đóng ở ranh giới tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa (đèo Tam Điệp) là chỗ
hiểm yếu.
Khi
Tôn Sĩ Nghị đến Bắc Ninh, vua Lê Chiêu Thống ra chào mừng rồi cùng về Thăng
Long. Tôn Sĩ Nghị đóng quân ở mé nam sông Hồng, bắc cầu phao trên song để đi
lại rồi cho quân đóng giữ các nơi.
Nói
về sự giao thiệp giữa vua Lê và Tôn Sĩ Nghị, sách VNSL của Trần Trọng Kim viết
như sau:
“Ngày hôm
sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống
làm An Nam Quốc Vương.
Vua Chiêu
Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long.
Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân
quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo
nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu,
không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng:
không có việc quân quốc gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.
“Người bấy
giờ bàn riêng với nhau rằng: “Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không
thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu,
việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi
không?”
Vua và triều
thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo
ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng
ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp
phá dân gian, làm lắm sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông
cậy.
Vua Quang
Trung đem quân ra Bắc Hà
Được
tin quân Tầu sang xâm lăng, Bắc Bình Vương họp các tướng bàn việc chống giặc.
Để được chính danh, các tướng đề nghị Nguyễn Huệ hãy làm lễ lên ngôi vua rồi
mới tiến quân.
Cuối
năm ấy, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi ở núi Bân (tây-bắc Huế), xưng là Hoàng Đế
Quang Trung, rồi tự vua chỉ huy quân ra Bắc.
Quân
của vua Quang Trung bấy giờ chỉ có năm mươi ngàn. Ra đến Nghệ An, vua cho dưỡng
quân 10 ngày, tuyển thêm năm mươi ngàn binh nữa, tổng cộng một trăm ngàn. So
với quân nhà Thanh là 1 chống 3.
Khi
Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm đến bái yết, vua Quang Trung nói: “Chúng
nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân
đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc.
Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận
rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không
thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì
Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa,
nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa.”
Vua
Quang Trung cho binh lính ăn tết trước, hẹn ngày mồng 7 tết năm đó (kỷ dậu) sẽ
vào thành Thăng Long (theo sử thì vua Quang Trung vào sớm 2 ngày, trưa ngày
mồng 5 tết).
Vua
Quang Trung chia quân làm 3 đạo tiến ra Bắc Hà:
-Đại
Tư Mã Ngô Văn Sở, Nội Hầu Phan Văn Lân đem quân đi tiên phong. Hô Hổ Hầu chỉ huy
quân tiếp ứng.
-Đô
đốc Long chỉ huy cánh quân đánh vào phía tây Thăng Long và đồn Khương Thượng.
-Đô
dốc Tuyết và Đô đốc Lộc chỉ huy thủy quân đánh quân Thanh ở phía bắc song Nhị
Hà và huyện Phượng Nhãn
-Đô
đốc bảo đánh các đồn địch phía nam Thăng Long
-Vua
Quang Trung chỉ huy đại quân phối hợp với đô đốc Bảo và Đô đốc Long.
Đêm
30 tháng Chạp diệt đồn Giản Khẩu do quân vua Lê Chiêu Thống đóng giữ. Sau đó,
diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo. Đồn Hà Hồi xin hàng.
Đêm
mồng 4 Tết, quân vua Quang Trung vây đồn Ngọc Hồi là đồn lớn nhất của quân
Thanh.
Đồng
thời quân của Đô đốc Long bất ngờ tấn công đồn Khương Thượng, giết hàng ngàn
tên địch. Tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống tự vẫn, xác quân Thanh gom lại thành
đống lớn, tục gọi là Gò Đống Đa. Đô đốc Long lại tiến đánh địch ở Tây Long.
Vua
Quang Trung cùng Đô đốc Bảo tấn công đồn Ngọc Hồi.
Chiến
thuật của vua Quang Trung là đánh mạnh và nhanh, diệt gọn, nghĩa là không cho
tên địch nào chạy thoát, thành ra địch quân trong các đồn của chúng không biết
tin gì của nhau cả, đến khi quân Tây Sơn tiến đánh mới hoảng hốt lo sợ.
Trong
khi vua Quang Trung ấn công đồn Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị được tin Đô đốc Long
đang tiến quân đánh Thăng Long, liền hoảng hốt bỏ chạy. Tôn Sĩ Nghị sợ quân Tây
Sơn đuổi theo nên ra lệnh cắt cầu phao, khiến quân Thanh đạp nhau mà chạy, rớt
xuống sông rất nhiều, làm nghẽn một khúc sông. Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong
Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả.
Tôn
Sĩ Nghị lại còn bị phục binh của Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc, may mà chạy thoát
được. Vua Lê Chiêu Thống cũng hớt hãi chạy theo. Quân Tây Sơn lại nói rằng sẽ
đuổi Tôn Sĩ Nghị qua bên kia biên giới, đến khi nào bắt được y mới thôi. Vì
vậy, những người Tầu sống ở gần biên giới nước ta cũng bỏ chạy cả, cả một quãng
đuờng mấy chục dặm không thấy một bóng người.
Vua
Quang Trung vào thành Thăng Long trưa ngày mồng 5 tết năm Kỷ Dậu. Hôm ấy, vua Quang Trung tự thân đốc quân đánh giặc, áo
ngự bào dính thuốc súng đen như mực.
Vua
Quang Trung lấy được ấn tín của Tôn Sĩ Nghị, do y sợ chạy gấp quá không kịp
mang theo, lại có cả thư của vua Càn Long viết cho Tôn Sĩ Nghị, dặn dò như sau:
“Việc
quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước,
và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra
đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người
nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ
tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh
của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo
hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia,
thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa
phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể
sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ
trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả
hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu
Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để
kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau”.
Đọc thư xong
rồi, vua Quang Trung nói với Ngô Thì Nhiệm: “Ta xem tờ chiếu của vua
nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta
đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà
đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh
đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được”.
Ngô Thì
Nhiệm vâng lệnh làm thư cho sứ mang cho nhà Thanh, đại khái nói rằng: “Nước
Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc
cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa.”
Việc thông
sứ với nhà Thanh xong rồi, vua Quang Trung lo việc nội trị, bên cạnh đó là việc
kiểm lại dân số, chờ ngày đòi lại đất Lưỡng Quảng.
Vua
Quang Trung ra lệnh cho các trấn xem lại sổ đinh, mỗi người có một cái thẻ tín
bài gọi là “Thiên hạ Đại tính”. Cứ ba đinh, nhà vua chọn một lính. Nhà vua tổ
chức lại quân đội, chia thành đạo, cơ, đội. Binh lính thường xuyên tập luyện.
Bấy
giờ có những người chống nhà Thanh bên Tầu chạy trốn qua nước ta đều được vua
Quang Trung thu dụng, giúp đỡ cho bọn Tầu Ô để chúng quay trở lai quấy nhiễu
nước Tầu. Những người theo Thiên Địa Hội bên ấy chạy sang ta cũng cho làm
tướng.
Năm
1792, (nhâm tí), vua Quang Trung sai sứ sang Tầu xin cầu hôn một công chúa cho
nhà vua và đòi trả lại đất Luỡng Quảng là đất của nước ta ngày trước. Ý của nhà
vua là đẻ thăm dò phản ứng của vua nhà Thanh như thế nào. Tiếc là vua Quang
Trung phải bệnh mất thình lình, nên sứ của ta bèn dấu việc ấy, không cho nhà
Thanh biết.
Nước
ta cũng không lấy lại được đất Lưỡng Quảng./
Bài đọc thêm
1)-Vua Quang
Trung có bài chiếu cầu hiền, kêu gọi người có tài năng ra giúp nước, nội dung
như sau:
Trẫm đang
ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng
thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa
thể ra phụng sự?… Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự
việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn – sức một cây không dễ gì chống đỡ,
sự nghiệp thái bình – sức một người không thể đảm đương”.
2)-Bà Hồ
Xuân Hương có bài thơ chê Sầm Nghi Đống:
Ghé mắt
trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đến thái thú(2) đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Kìa đến thái thú(2) đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Đền Sầm Nghi
Đống trước ở ngõ Sầm Công nay là phố Đào Duy Từ, Hà Nội. Sầm Nghi Đống là tướng
theo Tôn Sĩ Nghị sang ta chiếm Thăng Long. Nghị bị vua Quang Trung đánh đuổi về
Tàu năm 1789. Sầm Nghi Đống chạy không kịp, bị vây, thắt cổ tự tử. Nơi nầy về
sau, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét