Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

Hoàng Long Hải – Khái lược lịch sử đánh Tàu



Hoàng Long Hải – Khái lược lịch sử đánh Tàu
Sunday, June 29, 2014 


Giải thích:            

Sau khi “tù cải tạo” về tháng 7 năm 1982, đầu năm sau, buổi tối ngày 5 tháng Giêng ta, tôi ghé ngồi một quán càphê ở góc đường Trần Hưng Đạo – Đề Thám. Bàn bên cạnh, khoảng bốn, năm thanh niên cũng ngồi uống càphê. Nghe họ nói chuyện, tôi đoán chừng người nói giọng Bắc là cán bộ, một “Bắc kỳ 75” chính hiệu. Những người kia là “dân Saigon”. Có lẽ họ đang lén lút giao dịch gì đó với“ông cán bộ”, móc ngoặc, mua bán “hàng quốc doanh” như thường xảy ra ở Saigon thời bấy giờ.

Tôi nghe “ông cán bộ” nói:
-“Hôm lay nà ngày Quang Trung đánh tan bọn Nguyên Mông ở “Thăng Nong” đấy.”

Dĩ nhiên, tôi phải suy nghĩ về câu nói của “ông cán bộ” nầy. Không phải là việc “ông cán bộ” nói ngọng.
           
Trước hết là việc “ông nọ chắp cằm bà kia”. Vua Quang Trung đánh đuổi quân Tầu hay còn gọi là Mãn Thanh vào năm Kỷ Dậu, tính theo Dương lịch là năm 1789. Còn như “Nguyên Mông” thì bị quân nước Nam đời nhà Trần đánh bại tới ba lần, hồi thế kỷ 13, trận đầu tiên là vào năm 1257. Hai sự kiện lịch sử cách nhau bốn trăm năm.

Thứ hai, anh ta gọi là “Quang Trung” mà không gọi là “vua Quang Trung”, như cách gọi trong lịch sử (Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim chẳng hạn). Việt Cộng “kỵ” cái gì thuộc về vua chúa, “phong kiến”, là đối tượng đấu tranh của Cộng Sản. Gọi “Quang Trung” mà không gọi “Vua Quang Trung”, đối người Việt, nói chung, – dĩ nhiên không phải là người Cộng Sản – là xách mé, hổn láo, vô lễ, vô học.

Hồi trước, sách sử gọi là “quân Nguyên” hay “quân Mông Cổ”, không gọi là Nguyên-Mông như các “nhà sử học” Việt Cộng bây giờ.

Ý nghĩ chung của tôi với “ông cán bộ” là dốt, vô giáo dục. Tuy nhiên, nghĩ lại thì “ông cán bộ có biết gì đâu”. Ai dạy cho anh ta để biết lịch sử, nhất là “lịch sử chống Tầu” mà các “nhà sử học Việt Cộng”, không dám gọi là Tầu, mà gọi đúng “chữ nghĩa lễ phép” của Cộng Sản Hà Nội là “phong kiến phương Bắc”. Họ không dám nói đụng chạm tới “tổ tiên của người Trung Quốc” như tổ tiên chúng ta ngày xưa và người dân của Chính quyền Miền Nam (VNCH) đã gọi.

Thế tại sao bây giờ anh ta “bàn tới sự kiện lịch sử” nầy. Có lẽ mấy năm nay, kể từ cuộc chiến tranh giữa Tầu Đỏ và Việt Cộng, trong nội bộ cán bộ đảng viên có học tập về việc “Trung Quốc đánh ta” nên “ông cán bộ” nầy đem chuyện “đánh Trung Quốc” nói với đám thanh niên con cháu “Tay sai Mỹ Ngụy dốt nát”, chẳng biết gì về “lịch sử nhân dân ta”, bị “nô dịch văn hóa” chỉ biết có “cơm thừa sữa cặn” mà thôi.
 

Nhìn chung, học sinh miền Bắc không được học sử một cách đứng đắn, chính thống. Chương trình học chính yếu (VC gọi là chủ yếu) là học về đánh Tây, đánh Mỹ, đánh “Ngụy”, không dám nói tới “đánh Tầu”.
           
Học sinh miền Nam thì khác, cứ chính sử mà học, từ “Họ Hồng Bàng làm vua đầu tiên ở nước ta” tới thời kỳ cận đại.

Hiện giờ, tình hình giáo dục trong nước cũng không khá hơn, “Đảng và Nhà Nước” còn tránh né, không dám nói chi đụng tới người Tàu, biết là “dổm” mà vẫn cứ hô hào “Bốn tốt. Mười sáu chữ vàng” thì học sinh biết gì về lịch sử Chống Tầu.

Còn như ở Hải ngoại, con em chúng ta ôm cập tới nhà trường Mỹ, ai dạy cho chúng “lịch sử Việt Nam” để biết Hưng Đạo Đại Vương, Lý thường Kiệt là những ông nào. Bạch Đằng, Chương Dương, Gò Đống Đa là cái gì để nghe và hiểu các bài ca lịch sử hiện được trình bày thường xuyên trên các đài Radio và TV hải ngoại.

Trong nước thì vì chính sách của “Đảng và Nhà Nước”, Hải ngoại thì vì hoàn cảnh giáo dục, nên bọn trẻ u ơ về lịch sử VN. Vì vậy nên tôi phải viết bài nầy.

Trước hết, tôi cố gắng nói gọn, rõ ràng, để các em dễ đọc, dễ nhớ, nhấn mạnh các điểm quan trọng, cần thiết để chúng hiểu người Tầu thì như thế nào, người Việt thì như thế nào. Tại sao Tầu và Việt đánh nhau “cả ngàn năm” mà chưa dứt, và cũng để các em thấy thêm, biết gì thêm, nhớ gì về tinh thần của Dân Tộc và sẽ làm gì cho Dân Tộc Việt Nam sau nầy, khi các em lớn khôn. Bên cạnh đó, tôi thêm các phụ lục, nói một ích về dã sử có liên hệ đến các biến cố của thời kỳ ấy để làm vui lòng và sự thích thú cho người đọc. Phần nầy giống như các bài lịch sử khi tôi học lớp Ba, lớp Nhì bậc tiểu học.

Còn như người nào muốn đọc hay nghiên cứu lịch sử Việt Nam, xin bỏ thì giờ đọc “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, “Việt Sử Tân Biên” của Phạm Văn Sơn hay bộ Việt Sử Đại Cương mới xuất bản của Trần Gia Phụng, không thiếu gì trên các trang web./

Kính cẩn
hoànglonghải

Phần 1

Nói về
Một Ngàn Năm
Bắc Thuộc.

1)- Nguồn gốc nước Việt Nam.

Nguồn gốc dân tộc VN, nước VN là ở bên Tầu.
Trước thời Tần Thủy Hoàng (259-210 trước Tây Lịch) thành lập Đế Quốc Tầu đầu tiên, nước Tầu là một xứ tạp nham như thời kỳ Đông Châu Liệt Quốc, gồm nhiều nước ở Hoa Bắc (phía Bắc sông Dương Tử) thì vùng Hoa Nam, phía Nam sông Dương Tử là lãnh thổ của nước Việt, của một trăm giống Việt (Bách Việt). Những câu chuyện về Họ Hồng Bàng, các vua Hùng Vương (đóng đô ở Phong Châu – Vĩnh Yên-) , v.v… là khi lãnh thổ nước ta còn ở bên ấy.
Nói chung, lịch sử nước ta hồi ấy con mù mờ, chưa có sách sử nào nói rõ ràng, nên được hiểu đại khái như vậy.
Nước Nam Việt của Triệu Đà (239-137), cũng ở Hoa Nam. Còn An Dương Vương, tên là Thục Phán (trị vì 257-208), đóng đô ở Phong Khê, huyện Đông Anh, xây thành Cổ Loa, cách Hà Nội 20km. Ca dao có câu:
            Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục vương…
Triệu Đà dùng mưu, cho con trai là Trọng Thủy cưới con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu, cướp đất của An Dương Vương năm 208 trước TL.
Năm 111 tr. TL, nhà Hán cướp đất Nam Việt của nhà Triệu. Thời kỳ một ngàn năm đô hộ là kể từ năm nầy.
Cũng từ sự kiện lịch sử nầy nên sau khi đại phá quân Thanh năm 1789, dù đang thắng trận, vua Quang Trung phải sai sứ sang Tầu xin giảng hòa mà lòng vua thì còn hận.
Sử chép:
“Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xintrả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ý nhưng muốn mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.”
(VN Sử Lược –
Trần Trọng Kim/ cuốn 2)
2)- Một ngàn năm Bắc thuộc
Một ngàn năm Bắc thuộc là kể từ năm 111 Tr. TL như vừa nói, đến năm 939 sau TL, là năm Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành độc lập (sử thường gọi là quyền tự chủ).
Trong một ngàn năm Bắc thuộc, người Lạc Việt (Việt Nam) có nhiều cuộc nổi dậy:

a)-Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 sau TL)
Trưng Trắc và Trưng Nhị là con quan Lạc Tướng ở Mê Linh. Vì chính sách cai trị tàn ác của Thái Thú Tô Định, lại giết chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách nên Hai Bà kêu gọi các nơi cùng nổi dậy chống Tầu, đuổi Tô Định chạy về nước, chiếm giữ 65 thành trì. Bà Trưng Trắc tự xưng làm vua: Trưng Nữ Vương (Trưng Vương)
Hai Bà Trưng đọc lời thề trước khi xuất binh:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”

Cột đồng Đông Hán
Năm 43 sau TL, nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang phục thù. Hai Bà thua trận, nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Mã Viện bèn cho dựng cột đồng, khắc lên đó mấy chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” có nghĩa là nếu đồng trụ bị đổ thì dân Giao Chỉ bị tiêu diệt. Ngày nay, cột đồng đã mất dấu (1).
Về cột đồng, bài thơ ca ngợi Hai Bà của Hoàng Cao Khải, có câu:
            Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.

b)-Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu 248 sau TL)       
Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, quê ở Thanh Hóa, thuở nhỏ, cha mẹ mất sớm, ở với anh là Triệu Quốc Đạt. Năm 248, Bà cùng anh khởi nghĩa chống lại chính sách cai trị tàn ác của người Tầu. Anh em Bà thắng nhiều trận lớn.
Đang lúc ấy thì anh bà bị bệnh qua đời. Nghĩa binh thấy bà là người can đảm, mưu lược, bèn tôn Bà làm minh chủ. Khi ra trận, Bà thường mặc áo vàng cởi voi, nên dân chúng gọi Bà là “Nhụy Kiều Tướng Quân”
Nghe tin khởi nghĩa, vua Ngô bên Tầu sai Lục Dận đem quân sang đánh. Bà chống lại quân Đông Ngô được hơn nửa năm thì phải thua, bèn tuẫn tiết ở Thanh Hóa, năm 248 sau TL, khi ấy Bà mới 23 tuổi.
Khi Bà Triệu 19 tuổi, trả lời người hỏi Bà về việc chồng con, Bà nói:

“Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đônglấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”

c)-Lý Nam-Đế dựng nuớc
Tên thật là Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, gốc người Tầu, sang ở nước ta đã mấy đời, trở thành người Việt.
Bấy giờ nhà Lương bên Tầu đang cai trị nước ta rất tàn ác. Năm 542, Lý Bí ở Hà Tĩnh, hiệp cùng dân chúng các nơi, nổi lên chống Tầu. Thứ sử là Tiêu Tư sợ hãi, bỏ chạy về Tầu. Lý Bí liền đem quân ra chiếm thành Long Biên (Hà Nội bây giờ). Cuối năm ấy, vua nhà Lương lại sai quân qua đánh dẹp. Lý Bí liền đón đánh. Quân Tầu thua to, lại bỏ chạy về Tầu.
Lý Bí lên làm vua, tự xưng là “Nam Việt Đế”, sử gọi là Lý  Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.
Năm 545, quân Tầu lại sang xâm lăng, Nam Việt Đế thua trận, đem quân chạy về phía Nam. Ông tập hợp binh mã, thế lực lại mạnh lên, nhưng vẫn không chống nỗi quân Tàu. Ông bèn giao binh quyền cho Triệu Quang Phục.
Triệu Quang Phục chống không lại quân Tầu vì chúng quá đông. Ông lui về giữ Đầm Dạ Trạch là chỗ hiểm yếu, dùng chiến thuật du kích để đánh Tầu vào ban đêm, thắng nhiều trận nên dân chúng gọi ông là “Dạ Trạch Vương”.
Bấy giờ, anh của Lý Nam Đế (Lý Bí) là Lý Thiên Bảo, cùng với tướng là Lý Phật Tử, khởi binh ở Cửu Chân (Thanh Hóa), bị quân Tầu đánh bại, chạy trốn qua Ai Lao (Lào).
Năm 548, Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục tự xưng vua, tức Triệu Việt Vương.
Năm 550, thấy quân Tầu bây giờ thế yếu, Triệu Quang Phục bèn đem quân đánh, đuổi quân Tầu về nước, lấy lại nước Vạn Xuân, lại đem quân về đóng ở Long Biên.
Sau khi chạy qua Lào, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử lại đem quân về nước. Năm 555, khi Thiên Bảo chết, Lý Phật Tử tự xưng làm vua, đem quân đánh Triệu Việt Vương. Lý Phật Tử thấy thế mình còn yếu, bèn xin giảng hòa. Triệu Việt Vương cắt đất cho hòa.
Lý Phật Tử dùng mưu gian như Triệu Đà, kết sui gia với Triệu Quang Phục, rồi bất ngờ đem quân đánh úp. Triệu Việt Vương chống không lại, đem con gái lên ngựa chạy về phía nam, khi đến biển Đại Nha, hết đường chạy bèn nhảy xuống biển tự tử.
Lý Phật Tử lên làm vua, đóng đô ở Phong Châu (Vĩnh Yên), cũng xưng là Lý Nam Đế, đời sau, sử gọi là Hậu Lý Nam Đế, để phân biệt với Lý Bí.
Năm 602, nhà Tùy bên Tàu đem quân sang đánh nước ta, Lý Phật Tử biết thế chống không nỗi, bèn xin hàng. Nước ta lại bị Tầu đô hộ một lần nữa.
Kể từ khi Lý Bí nổi lên chống Tầu (542) đến khi Lý Phật Tử đầu hàng (602) là đúng 60 năm.
d)-Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương
Năm 722 Mai Hắc Đế (Mai Th úc Loan) thấy chính sách cai trị của nhà Đường (Tầu) tàn ác, bèn nổi lên chống lại, chiếm giữ vùng Hoan Châu (Nghệ An). Ông quê ở Hà Tĩnh, người khỏe mạnh, da đen sì, nên sử gọi là Mai Hắc (Đế).
Nhà Đường bèn đem thêm quân qua đánh Hắc Đế. Ông thua chạy rồi phải bệnh mà chết. Nay ở Nghệ An còn có đền thờ.
Mười tám năm sau, năm 791, Phùng Hưng lại nổi lên đánh phá quân Tầu. Phùng Hưng chiếm được Đô Hộ phủ, mấy tháng sau thì ông qua đời. Dân chúng kính mến ông, lập đền thờ và gọi ông là “Bố Cái Đại Vương”. Người Việt thường gọi cha là Bố, mẹ là Cái. Họ tôn kính ông như cha mẹ.
Quân sĩ tôn con ông là Phùng An lên nối nghiệp.
Cùng năm ấy, quân Tầu lại sang. Phùng An thấy không chống nỗi, bèn xin hàng.
e)-Họ Khúc dấy nghiệp (906-907)
Bên Tầu có loạn. Ở Giao Châu, có ông Khúc Thừa Dụ, quê ở Hải Dương, là người giàu có, tính tình đôn hậu, dân chúng tôn ông làm Tiết Độ Sứ để lo việc cai trị. Được một năm, Khúc Thừa Dụ mất, trao quyền lại cho con là Khúc Hạo. Khúc Hạo cầm quyền cai trị được 10 năm (907-917). Khúc Hạo mất, truyền lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. (917-923)
Sau đó, bên Tầu, nhà Lương cướp ngôi nhà Đường, đến năm 923, cho quân sang xâm chiếm nước ta, bắt được Khúc Thừa Mỹ, đem về Tầu, lại sai quan sang cai trị nước ta.
f)-Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện (933-938)
Dương Diên Nghệ nguyên là tướng của Khúc Hạo. Ông nổi lên đánh Tầu, đuổi chúng chạy về nước. Xong, Dương Diên Nghệ xưng là Tiết Độ Sứ. Được sáu năm, ông bị thuộc tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy binh quyền.
g)-Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán,
giết Thái tử Hoằng Tháo,
chấm dứt một ngàn năm nô lệ.
Tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền đem quân đánh Kiểu Công Tiện để báo thù.
Nguyên Ngô Quyền người quê ở Sơn Tây, là người tài trí, được Dương Diên Nghệ gả con gái cho.
Bị tấn công, Kiểu Công Tiện cầu cứu với người Tầu.
Vua Nam Hán của Tầu sai con là Hoằng Tháo đem quân đi trước, còn vua tự thân chinh đem quân theo sau tiếp ứng.
Sử chép:

“Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.

Hán Chủ nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu nữa.
(Viêt Nam Sử Lược –
Trần Trọng Kim, cuốn1)

Nhận xét về Ngô Quyền, Trần Trọng Kim viết như sau:
“Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.

Lịch sử thường gọi thời gian từ năm 111 Tr. TL đến năm 939 là năm Ngô Quyền đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành quyền độc lập là “Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu”.

Người Việt thường gọi bọn Tầu xâm lăng là “Giặc Tầu”, xưa đã vậy mà nay cũng thế.
Tuy nhiên, trong một ngàn năm đó, tình hình Giao Châu không bao giờ yên vì người Việt luôn luôn quật khởi, đánh lại người Tầu, giành quyền tự chủ.
Vì vậy, thời gian “Một ngàn năm” phải được chia thành 3 thời kỳ, sử gọi là:
-“Bắc thuộc lần thứ nhất” (từ 111 Tr. TL đến năm 40 sau TL, dài 141 năm),
-“Bắc thuộc lần thứ hai” (từ năm 43 sau TL đến 544 sau TL, dài 541 năm), và
-Bắc thuộc lần thứ ba” (từ 602 sau TL đến 939 sau TL, dài 337 năm).
(1)-Ông Giang Văn Minh đổ thám hoa (cao nhất kỳ thi năm ấy), được cử đi sứ Tầu đời Lê-Trịnh. Vua nhà Minh vì còn bênh nhà Mạc ở Cao Bằng, nên không chịu phong vương cho vua Lê, còn đem chuyện đồng trụ mai mỉa nước ta, ra câu đối:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục””
Nghĩa là:
Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc.
Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”
            Có nghĩa là: “SôngBạch Đằng từ xưa, máu vẫn đỏ”

            Vua Minh giận lắm, bèn sai người mổ bụng ông để “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”.
            Vua nhà Minh Tư tông cho đem xác ông về nước, khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công Bộ Tả Thị Lang, tước Vinh Quận Công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ),
Tại sao cột đồng mất dấu?
“Trong bài “Les colonnes de bronze de Ma Vien” đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue ngày 10 tháng 11 năm1943, học giả Đào Duy Anh cho rằng chuyện cột đồng là có thật và có lẽ nó được dựng ở núi Thành (tức núi Lam Thành hay núi Đồng Trụ, tên chữ là Hùng Sơn) ở Nghệ An. Và ông tin tưởng lời phán đoán của mình là đúng vì nó gần ăn khớp với sự ghi chép của sách Ngô lục và Tùy thư.” (Wikipedia).
Người Lạc Việt sợ “đồng trụ chiết” nên mỗi khi đi ngang qua, bỏ vào chân cột đồng một cục đá, đến nỗi cột đồng bị lấp mất.





Phần 2

Một ngàn năm
đánh Tầu.


A)-Đời Lý Trần
1)-Đánh Tầu đời Tiền Lê
            Lê Hoàn làm quan “Thập Đạo Tướng Quân” của nhà Đinh. Năm 981, nhà Tống chuẩn bị đem quân xâm lăng nước ta. Vì vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, nên quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua để lo việc chống Tầu. Ông tự xưng là Lê Đại Hành.
            Quân Tống chia làm 2 đạo: Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng tiến quân qua ngã Lạng Sơn. Lưu Trừng chỉ huy quân thủy tiến theo ngã sông Bạch Đằng.
            Ban đầu, thế giặc mạnh lắm, dù Lê Hoàn đã chuẩn bị các nơi, cũng phải lui quân, nhưng cho phục binh đánh quân bộ của Tầu ở Chi Lăng, bắt được Hầu Nhân Bảo, bèn giết đi. Quân Tầu đại bại, chết quá nửa.
            Lưu Trừng chỉ huy thủy quân thấy vậy, bèn rút quân chạy về nước.
            Tuy thắng trận nhưng sợ nhà Tống phục thù, chiến tranh kéo dài, dân tình khốn khổ nên Lê Đại Hành phải sang sứ xin hòa. Vua Tống phong cho vua Lê làm “Giao Chỉ Quận Vương”.
2)- Đánh Tầu đời nhà Lý.
Lý Thường Kiệt tấn công Lưỡng Quảng
            Bên Tầu, Tể tướng Vương An Thạch đặt ra “tân pháp” khiến dân chúng bất mãn. Để trấn an dân chúng và ổn định tình hình, Vương An Thạch chủ trương đánh nước ta. Thế rồi Thạch sai Lưu Gi thám xét địa thế nước ta để khởi binh.
            Nhà Lý nghi ngờ hành động ấy, bèn viết thư sang hỏi Tống triều. Lưu Gi bắt giữ sứ của ta lại, không cho về.
            Nhà Lý bèn sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản chỉ huy một trăm ngàn quân, chia làm 2 đạo sang đánh nước Tầu, lấy cớ là để cứu người Tầu khỏi ách cai trị tàn ác của nhà Tống.
            Năm 1075, Lý Thường Kiệt đem quân đánh Châu Khâm và Châu Liêm (thuộc Quảng Đông). Tôn Đản đánh Ung Châu (thuộc Quảng Tây). Tướng Tầu là Trương Thủ Tiết đem quân cứu Ung Châu, bị Lý Thường Kiệt vây đánh, giết Trương Thủ Tiết tại trận.
Tôn Đản vây thành Ung-châu hơn 40 ngày, quan tri-châu là Tô Đam cố giữ thành. Đến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Đam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước, rồi tự đốt chết theo. Người trong thành cũng bắt chước quan tri châu, không ai chịu hàng cả. Quân nhà Lý vào thành giết hại gần đến 58.000 (?) người, xong rút quân về.
Vua Tống giận lắm, cuối năm 1076, bèn sai Quách Quì cùng một số tướng sĩ và binh lính sang đánh nước ta. Vua Lý sai Lý thường Kiệt đem binh cự địch. Ông đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu bây giờ). Quân Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú Lương.
Lý Thường Kiệt đón đánh, không cho quân Tầu sang sông. Lúc bấy giờ quân Tống đánh hăng lắm, Lý Thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình ngã lòng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ:
Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm -phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh sĩ nghe đọc mấy câu thơ ấy, hết lòng đánh giặc. Quân Tống không tiến lên được. Hai bên chống giữ nhau. Mãi sau, Vua nhà Lý thấy đánh lâu không lợi, bèn xin hoãn binh.
“Vua Tống thấy quân Tầu không tiến lên được, lại đóng ở chỗ chướng địa, quân sĩ hơn 8 vạn, chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn binh để lui về, nhưng vẫn ngoan cố chiếm giữ một số đất đai của ta ở mạn Cao Bằng, Lạng Sơn.
Năm 1078, vua nhà Lý sai Đào Tôn Nguyên đi cống sang Tầu và đòi lại các vùng đất đã bị chiếm. Vua Tống bắt phải trả lại những người Tầu mà Lý Thường Kiệt và Tôn Đản dã bắt ngày trước.
Năm sau, vua nhà Lý thả những người bị bắt về và lấy lại đất đã bị mất.
Năm 1084, vua Lý Nhân Tông sai quan là Lê Văn Thịnh sang Tầu định lại biên giới giữa hai nước. Hai bên lại hòa hiếu. vua Tống phong chu vua Lý làm “Nam Bình Vương”.
3)-Ba lần đánh bại quân Mông Cổ.
            Người Mông Cổ cởi ngựa giỏi, bắn cung hay, rất thiện chiến. Thành Cát Tư Hãn từng nói: “Vó ngựa quân ta đến đâu, cỏ ở đấy không mọc được nữa.”
            Trong khi đem quân đánh nhà Tống, Hốt Tất Liệt sai “Ngột Lương Hợp Thai” đánh chiếm Vân Nam. Xong việc, y sai sứ sang nói với vua Trần thần phục Mông Cổ. Vua nhà Trần không nghe, bắt giam sứ Mông Cổ, rồi sai Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) đem quân giữ mạn bắc. Bấy giờ là năm 1257.
Sài Thung đi sứ
            Vua Mông Cổ nghe tin Trần Thánh Tông mới lên ngôi, bèn sai Sài Thung sang sứ nước ta.
               Thung là người kiêu ngạo, đến Thăng Long, y đi thẳng vào cửa chính, đưa thư trách cứ vua Nhân Tông: “Sao không xin phép triều-đình nhà Nguyên, mà dám tự lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều Hoàng-đế mới xong”. 

            Nhân tông mở tiệc mời Sài Thung, bảo Sài Thung rằng: “Quả-nhân xưa nay sinh-trưởng ở trong cung không quen phong-thổ, không thể nào đi được”.

            Năm 1282, Vua Mông Cổ lại sai sứ sang thúc hối, vua nhà Trần bèn sai Trần Di Ái đi thay cho nhà vua. Vua Mông Cổ không chịu, bèn sai quan qua nước ta làm giám trị. Vua Nhân Tông đuổi bọn chúng về nước.
            Vua ngà Nguyên giận lắm, phong cho Trần Di Ái làm An-Nam Quốc Vương, bèn sai Sài Thung đưa Di Ái về nước. Vua nhà Trần nghe tin, sai quân lên đón đánh. Sài Thung bị bắn hư một mắt, sợ hãi bỏ chạy về Tầu.
Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất.
            Vua Mông Cổ thấy Sài Thung bị thương chạy về, giận lắm, bèn sai con (Thái tử) Thoát Hoan cùng Toa-Đô và Ô-Mã-Nhi đem nửa triệu quân, giả tiếng là mượn đường đi đánh Chiêm Thành để xâm lăng nước ta.
Hội Nghị Bình Than
            Nghe tin, Nhân Tông mở hội nghị Bình Than (chỗ sông Đuống gặp sông Thái Bình), họp các tướng lại, bèn kế chống giặc.
Các tướng, nhất là Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ trương quyết chiến.
Bóp nát trái cam (Trần Quốc Toản)
            Trần Quốc Toản bấy giờ mới 17 tuổi, không được dự hội nghị. Ông tức giận, cầm quả cam trong tay bóp nát lúc nào không hay. Sau đó, ông cùng bạn bè, thu dụng người có nghĩa khí, lập một đội quân, cờ đề sáu chữ “Phá cường tặc, báo hoàng ân”,đánh thắng quân Mông nhiều trận, lập được công lớn.
Một chống hai rưởi.
            Để chống giặc, Trần Hưng Đạo hội các tướng ở Đông Bộ Đầu (1284). Quân thủy bộ cả thảy được hai trăm ngàn.
            Được ít lâu, nghe tin quân Nguyên chuẩn bị sang đánh, vua Trần có ý lo, bèn sai sứ sang Tầu, xin hoãn binh. Vua Nguyên không cho sai Thoát Hoan cứ tiến binh.
Hội Nghị Diên Hồng.
            Trước tình hình đó, vua Nhân Tông mở Hội Nghị Diên Hồng, họp các bô lão để hỏi “hòa hay chiến”. Các bô lão đồng thanh hô “chiến”. Vua thấy vậy, hăng hái cương quyết kháng cự.
Mông Cổ xâm lăng
            Quân Nguyên chia làm hai đạo tiến sang nước ta:
1/ Toa-Đô đem một trăm ngàn quân, đi đường thủy đánh Chiêm Thành. Chiếm được nước nầy, quân Tầu sẽ là mũi tấn công từ phía nam.
2/ Thoát Hoan tiến theo đường Lạng Sơn, lại có thư vừa dụ vừa dọa rằng: “Bản-súy chỉ nhờ đường Nam-quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi đến đâu, nhờ giúp ít nhiều lương-thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm-thành thì sẽ có trọng tạ về sau. Nhược bằng kháng-cự thiên binh, thì bản-súy sẽ không dong tình, phá tan bờ-cõi, bấy giờ dù hối lại cũng không kịp”.

            Trần Hưng Đạo đuổi sứ giả của Thoát Hoan về, chia binh giữ các ải ở Lạng Sơn, đích thân Trần Hưng Đạo đóng ở phía sau chờ tiếp ứng.
“Xin chém đầu tôi rồi hãy hàng.” (Hưng Đạo Vương)
            Quân Thoát Hoan tiến tới, đánh với quân của Trần Hưng Đạo mấy trận không phân thắng bại. Khi Thoát Hoan đánh Chi Lăng, Trần Hưng Đạo thua phải rút về Vạn Kiếp.
            Vua Trần nghe tin bại trận, liền đi thuyền nhỏ đến Hải Dương, cho vời Trần Hưng Đạo đến hỏi: “Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân-sự tàn-hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân.” Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân-đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng”. Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.
“Sát Đát”
            Hưng Đạo Vương tập họp quân ở Vạn Kiếp, được hơn hai trăm ngàn quân. Bấy giờ Vương soạn ra cuốn “Binh Thư Yếu Lược”, rồi truyền hịch khuyên răn tướng sĩ, làm cho tinh thần họ lên cao. Mỗi người lấy mực chích vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”, nghĩa là “giết quân Mông Cổ”.
Thăng Long thất thủ
            Khi ấy, Thoát Hoan thừa thắng đánh cuống Vạn Kiếp, bắt được người nào có chữ “Sát Đát” đều giết cả. Quân Thoát Hoan kéo tới sông Hồng Hà, cho bắt cầu phao qua sông, kéo đến chân thành Thăng Long hạ trại.
            Khi Thoát Hoan hạ được thành rồi, mới biết vua ta đã đi về phương nam, liền cho quân đuổi theo.
Toa Đô thua trận
            Toa-Đô cho quân đánh Chiêm Thành nhưng thất bại, bèn kéo ra đánh Nghệ An. Ô Mã Nhi đem thủy quân tiếp ứng với Toa-Đô.
            Nghe tin ấy, Hưng Đạo vương sai Trần Quang Khải đem quân phòng bị phía nam, không cho quân Nguyên đánh ra, lại sai Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường chận quân Thoát Hoan rồi rước vua về Hải Dương.
            Trần Quang Khải không cự nỗi quân Nguyên, phải rút lui.
“Thà làm quỉ nước Nam” (Trần Bình Trọng)
            Trần Bình Trọng đem quân đánh quân Nguyên ở Đà Mạc (Hưng Yên), thua trận bị bắt. Thoát Hoan biết Trần Bình Trọng là tướng khỏe mạnh, muốn khuyên dụ về hàng, thết đãi ăn-uống, nhưng Trần Bình Trọng không ăn, dỗ dành hỏi dò việc nước, TrầnBình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng:  “Có muốn là vương đất Bắc không?” Bình Trọng quát lên rằng: “Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!”Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.
            Bấy giờ thế giặc mạnh lắm, Hương Đạo Vương phải đem vua trốn tránh, ngày đêm lo nghĩ kế chống giặc, không sợ hãi chút nào.
“Cầm Hồ Hàm Tử quan” (trận Hàm Tử)
            Không thắng được Toa-Đô, Trần Quang Khải lui về giữ những nơi hiểm yếu ở phía nam, khiến Toa-Đô đánh mãi không được, lương thực ngày mỗi cạn, bèn cùng Ô-Mã-Nhì đi đường biển ra phía Bắc với Toát Hoan.
            Trước tình hình như thế, Hưng Đạo Vương tâu cùng vua Nhân Tôn: “Toa Đô tự Chiêm-thành trở ra, qua vùng Ô-lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì sức-lực cũng đã mỏi-mệt. Vậy nay nên sai một tướng đem quân ra đón đường mà đánh thì chắc phá được.”

            Vua bèn sai Trần Nhật Duật, có Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái làm phó tướng đêm 50 ngàn quân đón đánh Toa-Đô ở Hàm Tử (Hải Dương). Trong quân ta có Triệu Trung là tướng nhà Tống từ bên Tầu chạy qua xin gia nhập. Quân Nguyên lại tưởng lầm nhà Tống đã lấy lại Trung nguyên, nay cho quân sang giúp nước Nam nên bọn chúng sợ hãi bỏ chạy. Toa-Đô thua to, rút về Thiên Trường.
            Được tin ấy, Hưng Đạo Vương bèn tâu với vua: “Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh-thành”.

            Vua Nhân Tông sai hai đạo quân: Đạo thứ nhất do Trần Quang Khải vừa mới từ Nghệ An ra, đem quân đánh thẳng vào Thoát Hoan ở Thăng Long. Đạo thứ hai do Trần Nhật Duật chỉ huy, đánh chặn đường không cho Toa-Đô hợp binh cùng Thoát Hoan.
“Cướp sáo Chương Dương độ” (Trận Chương Dương)
            Thoát Hoan đóng binh ở Thăng Long, thủy binh đóng ở bến Chương Dương.
            Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đem quân đánh vào chiến thuyền quân Nguyên. Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không chịu nỗi, phải bỏ chạy. Thừa thắng, quân ta kéo đến thành Thăng Long hạ trại. Thoát Hoan đem quân ra cự, bị phục binh của Trần Quang Khải, phải bỏ Thăng Long rút qua sông Hồng Hà chạy lên phía Bắc Ninh.
            Trần Quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:

Đoạt sáo Chương-dương độ
Cầm Hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang-san

Dịch nôm:
Chương-dương cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Trận Tây Kết (1285)
            Bấy giờ Toa-Đô không liên lạc được với Thoát Hoan, cũng không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy khỏi Thăng Long. Hưng Đạo Vương xin vua sai Trần Nhật Duật cùng Trần Quang Khải đem quân giữ các nơi, không cho Toa-Đô và Thoát Hoan thông thương được với nhau, còn Vương thì tự đem quân đánh Thoát Hoan, cho một đạo phục binh đánh úp Toa-Đô.
            Bấy giờ quân ta thắng hai trận lớn ở Hàm Tử và Chương Dương, tinh thần lên cao lắm.

               Quân Nguyên không địch nỗi, bỏ thuyền lên bộ mà chạy. Toa-Đô bị tên chết. Ô-Mã-Nhi tìm đường chạy vào Thanh Hóa, bị chận đánh rất gắt, bèn bỏ quân lính, một mình trốn lên một chiếc ghe nhỏ mà chạy về Tầu.
            Ở Tây Kết, quân của Vương toàn thắng, bắt sống ba chục ngàn quân Mông Cổ và vô số thuyền bè, khí giới. Vương cho khao quân rồi đem quân tiếp tục đánh đuổi Thoát Hoan.
Trận Vạn Kiếp.
            Thấy quân các nơi đều bị đại bại, Thoát Hoan có ý bỏ chạy. Vương đoán biết ý ấy bèn sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái dẫn ba chục ngàn quân phục sẵn ở bờ sông Vạn Kiếp, chờ quân Mông rút về thì đổ ra đánh, sai hai con trai của Vương ra giữ mạn Quảng Yên, không cho quân Mông chạy về. Còn Vương tự dẫn quân đánh Thoát Hoan.
            Thoát Hoan thua trận, rút chạy về ngã Vạn Kiếp, bị phục binh của Phạm Ngụ Lão và Nguyễn Khoái, mười phần chết hết năm. Thoát Hoan sợ tên phải chui vào ống đồng, bỏ lên xe mà chạy. Đến gần châu Tư Minh, Thoát Hoan còn bị hai con trai của Vương đổ ra đánh, tên bắn như mưa, các tướng Nguyên chết cả. Trận ấy tướng Mông Cổ chỉ có Thoát Hoan, A-Bát-Xích và Phàn Tiếp thoát được về Tầu mà thôi.
Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai
            Thoát Hoan tuy đại bại chạy về Tầu, nhưng lòng căm hận lắm, định xin vua Nguyên cho thêm binh lính sang đánh phục thù. Vua Nguyên y cho, sai đóng thêm chiến thuyền, tập họp binh mã, dự trù tháng 8 năm ấy sẽ khởi binh.
            Vua nhà Trần nghe tin ấy, lấy làm lo, bèn cho gọi Hưng Đạo Vương vào hỏi: “Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà chống lại được?”

 Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo”.
            Nghe xong, vua yên lòng, bèn sai các nơi chuẩn bị để nghênh giặc.
            Năm 1287, Thoát Hoan làm đại nguyên súy, đem 3 trăm ngàn quân cùng 5 trăm chiến thuyền chia làm hai đạo: Thoát Hoan dẫn một đạo đi đường bộ theo ngã Quảng Đông mà vào Bắc Giang. Đạo thủy binh do Ô-Mã-Nhi, Phàn Tiếp theo đường biển mà vào nước ta.
            Được tin, vua sai các vương hầu, thống lĩnh cá nơi phòng giặc. Hưng Đạo Vương sai Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn ba chục ngàn quân giữ mặt Lạng Sơn. Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần dẫn ba chục ngàn quân giữ mặt Nghệ An. Vương tự mình đem quân giữ mặt Quảng Yên.
            Thế quân Mông Cổ mạnh lắm. Vương chống không nỗi, phải lui về Vạn Kiếp. Thoát Hoan sai quân đánh Vạn Kiếp, lại sai Ô-Mã-Nhi đánh vào sông Hồng. Hưng Đạo Vương phải rút về Thăng Long, xa giá phải bỏ kinh thành, rút về phía nam, rồi vào Thanh Hóa.
            Thoát Hoan đem quân đánh vào Thăng Long nhưng không chiếm được thành, phải lui về Vạn Kiếp. Hưng Đạo Vương lại tiến quân lên chống giặc.
Trận Vân Đồn
            Quân Nguyên đóng ở Vạn Kiếp, tiến thoái lưỡng nan, lương thực sắp cạn, bèn sai Ô-Mã-Nhi đem chiến thuyền ra ngã Hải Dương đón thuyền lương của Trương Văn Hổ bên Tầu sang. Trần Khánh Dư chận đường Ô-Mã-Nhi nhưng bị đại bại. Ô Mã Nhi đi thẳng ra biển.
            Thua trận, Trân Khánh Dư bị vua sai sứ ra hỏi tội. Trần Khánh Dư thưa: “Tôi sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?”
            Mấy hôm sau, sau khi gặp Trương Văn Hổ rồi, Ô-Mã-Nhi lại trở vào, đi trước dẹp đường, thuyền lương thực Trương Văn Hổ đi sau.
            Thấy thế, Trần Khánh Dư nghĩ rằng Ô-Mã-Nhi vừa thắng trận, nên ỷ y, bèn nhặt nhạnh thuyền bè, tập hợp binh sĩ, phục sẵn, chờ thuyền Trương Văn Hổ đến.
            Quả nhiên, khi thuyền Trương Văn Hổ đến vịnh cửa Lục thì bị đánh úp. Bao nhiêu thuyền lương và vũ khí đều bị cướp cả. Trương Văn Hổ bại trận, lên chiếc thuyền nhỏ chạy về Tầu.
            Được tin, vua quan của ta đều mừng. Vua bảo Hưng Đạo Vương rằng: “Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất dễ”.

Trận Bạch Đằng, “lời thề sông Hóa”
            Sau khi thua trận Vân Đồn, binh tướng quân Nguyên đều nao núng, chỉ muốn rút về. Hưng Đạo Vương đoán biết ý ấy, chuẩn bị đánh đuổi giặc.
            Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy binh theo sông Bạch Đằng ra biển về trước, sai Trình Bằng Phi, Trương Quân chặn hậu để Thoát Hoan đem quân về.
            Hưng Đạo Vương sai “Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra đánh.”

Khi ngang “sông Hoá lúc ấy vào mùa nước cạn nên Hưng Đạo Vương cho con voi chiến của mình lội qua sông. Chẳng may lội đến giữa sông thì voi bị sa lầy không sao nhúc nhích được nữa. Thấy thế, nam phụ lão ấu trong làng đổ ra tìm đủ mọi cách như bắc ván, lót rơm… để giúp voi qua sông nhưng rốt cuộc đều không kết quả. Việc binh như lửa, không thể chậm trễ, Hưng Đạo Vương đành quyết định bỏ voi lại. Con voi khôn ngoan tội nghiệp cứ nghểnh đầu trông theo vị chủ tướng và ứa nước mắt. Hưng Đạo Vương không khỏi mủi lòng đến nỗi nước mắt vương cũng ứa ra. Nhưng không thể để cho những tình cảm uỷ mị làm mềm lòng quân sĩ trước một trận chiến mang tính chất quyết định, vương bèn nói:
“Ta thương là thương con voi trung với nước và có nghĩa với ta, chứ không phải ta lo sợ có sự gì bất tường (điềm gở) đâu! Ta nói cho các ngươi biết: trong quân sĩ nếu ai để cho lòng nao núng thì hãy trông thần kiếm của ta đây!

            Và thề rằng: “Trận này mà không phá xong giặc Nguyên thì không về đến sông này nữa!”

            Quân sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-Đằng.
            “Chiến-thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch Đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu chiến. Ô Mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô Mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng Đạo-vương tiếp đến. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.”

“Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.”

Thoát Hoan rút về theo đường bộ. Đến ải Nội Bàng thì gặp phục binh của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Quân Nguyên vùa chống vừa chạy. Trường Quân đi đoạn hậu bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Binh Nguyên mười phần chết hết năm sáu.
            Bấy giờ Thoát Hoan lại nghe tin cấp báo đường về đã bị chặn cả, bèn sai A-Bát-Xích, Trương Ngọc đem quân mở đường. Áo-Lỗ-xích đi chận hậu, còn y đi giữa. Phục binh của Vương trên núi bắn tên dộc xuống như mua, hai tướng đi đầu đều tử trận cả. Thoát Hoan phải theo đường tắt mà trốn chạy về Tầu.
            Dẹp giặc xong, Hưng Đạo Vương rước xa giá về lại Thăng Long. Triều đình đem các tướng Nguyên bị bắt làm lễ hiến phù trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn, cho rằng các tiên đế cũng cởi ngựa đá đi đánh giặc bèn làm hai câu thơ:

Xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch nôm:
Xã-tắc hai phen bọn ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng.

            Sợ vua Nguyên phục thù, chiến tranh kéo dài, dân tình khốn khổ nên năm 1288, vua Trần sai sứ sang Tầu cầu hòa. Vua Nguyên thấy đánh ba lần đều bị đại bại nên thuận cho hòa.
            Năm sau, vua Nhân Tông cho các tướng bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tầu. Phàn Tiếp lo sợ thành bệnh mà chết. Duy có Ô-Mã-Nhi là người tàn ác, vua ta cho về, nhưng sai người đục thuyền cho y chết chìm ngoài biển. Vua Nguyên biết nhưng không làm gì được. Đúng là “luật Nhơn-Quả”.
            Sau khi toàn thắng, vua khen thưởng cho tất cả tướng sĩ có công. Riêng có một số người hai lòng thì vua có cách: “Khi quân Nguyên đang cường thịch, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đình thần muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên lòng mọi người.


Phụ Lục (Bài đọc thêm)
1)-Cổ tích về Lý Thường Kiệt chống Tầu
“Bọ ngựa chống xe”
            Một hôm Trang công nước Tề xa giá đi săn. Xe ra khỏi thành, đi trên đường cái, có con bọ ngựa cứ đứng giữa đường, giương càng chực chống lại với cái xe. Tả, hữu thấy thế kêu lên rằng: “Chết! chết!” Trang công nghe tiếng tưởng sự gì nguy hiểm, vội vàng bắt xe dừng lại hỏi. Tả hữu thưa:
            “Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giơ càng lên muốn chống lại. Giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên, chớ không lui, không chịu lượng sức mình khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì xem thường, xem khinh, cứ lập tức xông vào. Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào?!
            Trang công nói: “Hãy khoan! Giống bọ ngựa thế mà đáng kính. Giả thử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp, không ngại gian nan , không sợ nguy hiểm, nhất quyết chỉ tiến lên, chọi với cường địch, chết cũng không thoái tị, thì chẳng đáng nên tôn kính lắm ư?”
            Nói đoạn, Trang-công bảo tránh xe đi sang một bên.
            Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang công nghe tháy câu chuyện, khi phải đi đánh giặc, là liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ ngựa./
Hàm thi ngoại truyện

Lời bàn
(của Ôn Như Nguyễn văn Ngọc và Tử An Trần lê Nhân)
            Có kẻ cừu địch trước mật, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi có khi như trứng chọi với đá, nồi đất chọi với nồi đồng, thì cũng là khờ dại đáng tiếc.

Tuy vậy, có kẻ hà hiếp mình thậm tệ, mà mình còn đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục. Nhất là mình lại quả quyết phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen.

Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh, lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang công thực là khéo biết dạy, mà tướng sĩ Trang công thực là biết nghe ra vậy.

            Thầy giáo dạy sử cho tôi năm lớp Nhì, khi giảng về ông “Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm” lấy câu chuyện “Bọ ngựa chống xe” để ví với sức mạnh của nước ta thời bấy giờ với quân Tống, giải thích rằng sức mạnh của vũ khí phải kết hợp với sức mạnh tinh thần. Chính cái “tinh thần Đại Việt” đời Lý đã tạo nên chiến thắng ở Châu Ung, Châu Khiêm, cũng như chiến thắng của quân Lý trên sông Như Nguyệt, trận quyết định thắng bại gữa quân hai nước.
            Dĩ nhiên, chiến thắng của Lý Thường Kiệt và binh lính của ông được vua tôi và dân chúng Đại Việt ca ngợi. Và đó cũng là nguồn gốc của câu ca dao:
                        Nực cười châu chấu đá xe,
                        Tưởng là chấu ngã ai ngờ xe nghiêng.

            Sau đây là phần phụ lục nói về chiến công “Phá Tống” của Lý Thường Kiệt và binh tướng của ông, trích trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
            “Nhà Tống Lấy Đất Quảng Nguyên. 

Tống-triều đươc tin quân nhà Lý sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm tức-giận lắm, bèn sai Quách Quì làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước Nam ta.

       “Tháng chạp năm bính-thìn (1076) quân nhà Tống vào địa-hạt nước ta.  Lý-triều sai Lý thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở Bắc-ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú-lương.

       “Lý thường Kiệt đem binh-thuyền lên đón  đánh không cho quân nhà Tống sang sông.  Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy nghìn người.  Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lý thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ:

                        Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư
                        Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
                        Như hà nghịch lỗ lai xâm -phạm
                        Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

       “Quân-lính nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đáng giặc, quân nhà Tống không tiến lên được.  Hai bên cứ chống giữ nhau mãi.  Lý-triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh.

       “Vua Tống thấy quân mình không tiến lên  được, mà lại  đóng  ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn-binh lui về, chiếm-giữ châu Quảng-nguyên (bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu Tư-lang (bây giờ là châu Thượng-lang và Hạ-lang, tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới tỉnh Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn) và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).

        “Đến năm mậu-ngọ (1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi lại những châu huyện ở  mạn Quảng-Nguyên. 

            “Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý.  Sang năm kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về nước, tất cả chỉ có 221 người. 

Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: “Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ: Quan-khách.

            “Đất Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.

            “Đến khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng:
                                                 
                        Nhân tham Giao-chỉ tượng.
                        Khước thất Quảng-nguyên kim.
   
            “Đến mùa hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia địa-giới.  Lê văn Thịnh phân-giải mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại.  Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.

            “Năm đinh-mão (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân-tông là Nam bình-vương.

            “Nhà Tống bấy giờ đã suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Mãn-châu) sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu (thuộc Chiết-giang) gọi là Nam-tống.
 (Trần Trọng Kim,
Việt Nam Sử lược)


2)-Giai thoại về
Hưng Đạo Đại Vương,
________________________________
Hưng Đạo Đại Vương, có khi gọi tắt là Hưng Đạo Vương. Người Việt Nam tôn sùng ông, gọi là “Thánh”, tiếng thông thường là “Đức Thánh Trần”, không gọi tên vì tránh “phạm húy”, có đền thờ khắp cả nước, từ Nam chí Bắc. Ngay ở đền Ngọc Sơn, Hà Nội, nơi linh thiêng, người dân Hà Nội thường đến lễ bái vào dịp Tết hay ngày lễ vía cũng có bàn thờ Ngài. Trên bàn thờ, tượng Ngài ở giữa, hai bên thờ Phật và thờ thần Tháp Rùa.
Tại sao tượng Đức Trần Hưng Đạo ở giữa tượng Phật và tượng Thần?
Người Việt Nam thường kết hợp tinh thần Dân Tộc với tinh thần Tôn Giáo trong “Chủ Nghĩa Yêu Nước”. Trong suốt những cuộc chiến đấu chống một ngàn năm Bắc thuộc cũng như thời kỳ một ngàn năm chống xâm lăng để giữ nền tự chủ của người Việt, Tổ tiên, thần thánh, các bậc anh hùng liệt nữ dù đã quá vãng vẫn cứ luôn luôn xuất hiện giúp đỡ, hỗ trợ vua quan, quân binh, dân chúng chống lại kẻ thù. Trong các chiến trận đó, không bao giờ thiếu vắng hương linh, hình ảnh Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Đức Thánh Trần, vua Quang Trung, v.v… Ngay cả trong lần đánh quân Tống trên sông Như Nguyệt, hai anh em Trương Hống, Trương Hát đã đem “âm binh” đánh úp trại quân Tống, giúp Lý Thường Kiệt đại thắng trong trận nầy.
Việc thờ phụng trong Đền Ngọc Sơn, tượng Thánh Trần ở giữa, hai bên là tượng Phật và Thần Tháp Rùa là có ý nghĩa của nó. Dù tôn giáo, dù thần thánh, một nhân vật như Đức Thánh Trần, ba lần đánh đuổi quân Mông Cổ, giữ nền độc lập, trăm họ an vui là người đó được tôn sùng là Thánh, còn hơn cả vua, là người tượng trung cho “Tinh Thần Dân Tộc”. Người đó phải được tôn vinh hơn hết.
Tổ Quốc trên hết là Tinh Thần yêu Đất Nước, yêu Dân Tộc của Người Việt Nam. (Chữ Người, tg cố ý viết hoa)
Đó là niềm tin tôn giáo, kết hợp với niềm tin Tổ tiên Dân tộc đã nâng cao tinh thần chống ngoại xâm của người Việt Nam.
Trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, Đức Trần Hưng Đạo là “Thánh Tổ của Quân Chủng” Hải Quân.
Khi Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ là bà Thuận Thiên Công Chúa, chị của Lý Chiêu Hoàng cho em ruột là vua Trần Thái Tông, khi bà nầy có thai được ba tháng.
Phẫn uất vì chuyện nầy, Trần Liễu hợp quân chống lại Thái sư. Vua Trần Thái Tông buồn bã bỏ lên núi Yên Tử. Về sau, Trần Liễu phải xin vua Trần Thái Tông xá tội. Nhờ vua Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ mới không giết Trần Liễu.

Tuy nhiên, Trần Liễu không quên được mối hận nầy. Khi sắp mất, ông trối trăn với con trai là Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo): “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấnvâng dạ, nhưng không nghĩ đó là điều phải.
Có lần Hưng Đạo Vương nói chuyện ấy với hai tì tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai tướng ấy thưa rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”…
Có lần Hưng Đạo Vương thăm dò ý kiến con trai là Hưng Vũ Vương: “Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?” Hưng Vũ Vương tỏ rõ lòng “trung quân”: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi cùng một họ.”
Nhưng khi Hưng Đạo Vương hỏi dò Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, người con thứ, nghe xong câu trả lời: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được cả thiên hạ” Hưng Đạo Vương không khỏi nổi giận, mắng: “Tên loạn thần là đứa con bất hiếu nầy mà ra.” Hưng Đạo Vương rút gươm tính chém. Hưng Vũ Vương hay tin, tới khóc lóc xin chịu tội thay.
Sau đó, ông dặn Hưng Vũ Vương: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Năm 1285, khi quân Nguyên tấn công, vua và Thượng Hoàng chạy ra Quảng Ninh, tình thế hiểm nguy. “Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương (Trần Liễu – tg), nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi.” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Sử còn chép: Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”.Trần Hưng Đạo thưa: “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn.”

Mối bất hòa giữa hai chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo trở thành một hiểm họa, có thể làm hại cho công cuộc chống quân Nguyên. Vì vậy, Hưng Đạo Vương tìm cách giải hòa: “Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:

“Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
“Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”.
Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”.

Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
(Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

Sử cũ cũng kể rằng: “Bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn (con trai của Trần Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc) được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì “sợ phật ý Quốc Tuấn”.

“Vậy mà khi quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy “giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư” sau khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi soạn xong “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, thì Trần Khánh Dư cũng là người được ông chọn để viết bài Tựa cho sách.

Vua phong Trần Quốc Tuấn làm Thượng Quốc Công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên xâm lăng nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi…
Hưng Đạo Vương thương yêu và lo lắng cho binh sĩ. Trong Hịch Tướng Sĩ, Vương nói:
“Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm-đìa, chỉ căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên, Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.”

Xem như thế, ông chăm sóc binh lính khá kỹ, không để họ đói rách, thiếu thốn bao giờ.
Đầu năm 1281, sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long, thái độ rất ngạo mạn. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
            “Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông.”

Binh Pháp:
“Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”.
Hưng Đạo Vương trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm ChâuLiêm Châu đánh vào Trường SaHồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.

“Đời nhà Đinhnhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời.

“Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.

“Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.

Những điều trả lời, cho người đọc thấy Hưng Đạo Vương là người giỏi về lịch sử quân sự. Về đời Triệu, sách lược chống Hán là là “kế thanh dã”, tức “vườn không nhà trống” là kế triệt lương thực của địch. Muốn kéo dài chiến tranh, phải có lương từ hậu phương đưa tới. Công việc nầy khó thực hiện vì quân thì đông, đường thì xa. “Thực túc binh cường”. Kế nầy là “thực không túc” thì “binh cường” thế nào đươc! Một mặt thì đánh bằng trận lớn (trường trận), mặt khác thì phục binh (đoản binh) đánh phía sau. Kế ấy làm cho giặc phải thua.
Đời Tiền Lê, đời Lý thì dùng kế khỏe đánh mệt. Giặc từ bên Tầu sang, đi đường xa thì mỏi mệt, tinh thần yếu, còn phía ta thì đánh ngay tại “sân nhà”, vua tôi cùng một lòng, tức là đoàn kết, thắng giặc không khó là nhờ vậy.
Binh pháp chính yếu của Hưng Đạo Vương là lấy Đoản Binh chống Trường Trận. Trường trận là trận lớn, giàn binh ra mà đánh. Đó là thế mạnh của quân đông, vũ khí lớn và dầy đủ. Xem như trận Đông Bộ Đầu, VNSL của Trần Trọng Kim chép như sau: Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-hà có trại quân An- nam đóng giữ, mới sai quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành Thăng-long hạ trại.
            Quân địch tiến như vũ bão, hung dữ thì sức mạnh ấy không bền. Khi chúng tiến chậm mà chắc, ấy là tạo nên cái khó cho việc chống giữ.
            Binh pháp nầy, về sau, người ta thấy Việt Minh, (Võ Nguyên Giáp?) đem áp dụng, nhưng không bao giờ nói là học từ binh pháp của Hưng Đạo Vương mà nói từ… Liên Xô.
            “Kế thanh dã”, như Hưng Đạo Vương nói, là vườn không nhà trống, có khác chi với chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh. Trong trận Đông Bộ Đầu, quân Mông dùng đại bác bắn tan tác trại binh của ta, có khác chi “tiền pháo hậu xung” mà Võ Nguyên Giáp đã áp dụng. Khi còn là giáo sư sử địa, Giáp thường cổ võ cho chiến thuật nầy, nhưng bấy giờ ông ta nói là của Napoléon. Napoléon sau Trần Hưng Đạo những hơn năm trăm năm. Còn như dùng “Đoản binh” mà (khống) chế “trường trận” thì chính là chiến thuật phục kích, du kích, “đánh nhanh rút nhanh” mà sau nầy, Võ Nguyên Giáp đã đem ra áp dụng cho “bộ đội Việt Minh”. Những điều nầy, Giáp cho là học ở Liên Xô, ở “người thầy vĩ đại Stalin” chứ không nói là từ tổ tiên ta bao giờ.
            Điều căn bản, Hưng Đạo Vương trối trăn là “trên dưới một lòng” hay “vua tôi một lòng”. Hơn thế nữa, Hưng Đạo Vương còn nói tới “Anh em hòa mục” chính là việc ông đã làm với Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải.
            Đó là điều nói và làm, không hô hào suông, về “Đoàn Kết” vậy
            Hưng Đạo Vương thương yêu binh sĩ, trong Hịch Tướng Sĩ, Hưng Đạo Vương nói:
“Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười.”
            Hưng Đạo Vương coi binh sĩ như thủ túc, như anh em, chỉ sai người lính đi vào chỗ chết khi nào cần thiết. Ở “Lời thề sông Hóa” khi voi của Vương bị mắc lầy, Vương phải bỏ voi mà đi cho kịp đánh trận, voi khóc mà Vương cũng ứa nước mắt. Với súc vật còn thế huống chi là với binh lính, với dân lành.
            Trong chiến tranh Việt Minh chống Pháp, “chiến thuật biển người” thường được đem ra áp dụng, trận nào cũng vậy chứ không riêng chi trận Điện Biên Phủ, Việt Minh chết gần mười ngàn binh lính. Phan Đình Giót cùng 16 người nữa được vinh danh không phải là để cổ vũ cho “chiến thuật biển người” hay sao? Đó là chiến thuật vô nhân đạo, Cộng Sản mới thường dùng.
            Theo ý kiến của ông Hà Văn Tải, giám đốc đài truyền hình SBTN Boston ngày 25 tháng 2 năm 2013, đối với luật pháp Hoa Kỳ, thì một viên “tướng thí quân” như Võ Nguyên Giáp đã phải ra tòa án quân sự từ lâu rồi.
Phạm Ngũ Lão
Trong Vũ Trung tùy Bút, Phạm Đình Hổ thuật lại câu chuyện ông Phạm Ngũ Lão ra mắt Hưng Đạo Vương khá lạ kỳ:
“Hưng Đạo Vương cùng tuỳ tùng đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi bên vệ đường đang đan sọt. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên, như không để ý đến ai cả. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích, thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời rằng đang nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết người có tài, Trần Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh sư. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành môn khách của Trần Hưng Đạo.”
Sau Hưng Đạo Vương gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên.
Sông Bạch Đằng
Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang, (tên nôm: sông Rừng), hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Longcửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình.
Điểm đầu là phà Rừng – Hải Phòng (ranh giới Hải Phòng và Quảng Ninh).
Điểm cuối là cửa Nam Triệu – Hải Phòng. Sông có chiều dài 32 km.

Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội (Thăng Long), từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầysông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội

Sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công của dân tộc Việt Nam:


Hiện ở khu vực cửa sông Bạch Đằng có 3 ngôi đền thờ 3 vị anh hùng. Đó là đình Hàng Kênh (Lê Chân, Hải Phòng) thờ Ngô Quyền, đền Vua Lê Đại Hành ở thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đền Trần Hưng Đạo ở phường Yên Giang, (Quảng YênQuảng Ninh).

Bạch Đằng Giang phú
(Trương Hán Siêu, danh sĩ nổi tiếng đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bàiBạch Đằng giang phú rất được lưu truyền…)
Khách có kẻ:
Chèo bể bơi trăng, buồm mây giang, gió.
Sớm ngọn Tương kia, chiều hang Vũ nọ.
Vùng vẫy Giang, Hồ: tiêu dao Ngô, Sở.
Ði cho biết đây, đi cho biết đó.
Chằm Vân-mộng chứa ở trong kho tư-tưởng, đã biết bao nhiêu, mà cái trí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở!
Mới học thói Tử-trương: bốn bể ngao du.
Qua cửa Ðại-than sang bến Ðông-triều, đến sông Bạch-Ðằng, đứng đỉnh phiến-chu.
Trắng xóa sông kềnh muôn dặm, xanh rì dặng ác một màu.
Nước trời lộn sắc, phong cảnh vừa thu.
Ngàn lau quạnh cõi, bến lách đìu-hiu.
Giáo gậy đầu sông, cốt khô đầy gò.
Ngậm ngùi đứng lắng ngắm cuộc sống phù du.
 Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, mà đây dấu vết hãy còn lưu.
Kia kìa, bến sông, phu lão người đâu.
Lượng trong bụng ta, chứng có sở cầu.
Hoặc gậy trống trước, hoặc thuyền bơi sau.
Vái tạ mà thưa rằng: Đây là chỗ chiến địa vua Trần bắt giặc Nguyên, và là nơi cố-châu của vua Ngô phá quân Lưu đây.
Đương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ.
Gươm tuốt sáng lòe, cờ bay đỏ khí!
Tướng Bắc quân Nam đôi bên đối lũy.
Đã nổi gió mà bay mây, lại kinh thiên mà động địa.
Kìa quân Nam-Hán nó mưu sâu, nọ Hồ-Nguyên có sức khỏe.
Nó bảo rằng: phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
May sao:
Trời giúp quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích-bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp-phù thuở nọ.
Ấy cái nhục tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta lưu danh thiên cổ.
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang-san.
Trời đặt ra nơi hiểm-trở, người tính lấy cuộc tồn-an.
Hội này bằng hội Mạnh-tân, như vương-sự họ Lã; trận nào bằng trận Dung-thủy, như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch-Đằng này mà đại-thắng, bởi chưng Đại-vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng hao mòn.
Nhớ ai sa giọt lệ, hổ mình với nước non!
Rồi vừa đi vừa hát rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê!
Cuồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Trời Nam sinh kẻ anh hùng.
Tăm kềnh yên lặng, non sông vững-vàng
Khách vừa đi vừa hát rằng:
Vua Trần hai vị Thánh-quân.
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp-binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng-bình.
Tài đâu đất hiểm, bởi mình đức cao
            Hiện giờ chúng ta có hai bài hát về sông Bạch Đằng, một của Hoàng Quý, một của Lưu Hữu Phước.


B)-Khởi nghĩa Lam Sơn,
mười năm bình định giặc Minh



1)-Nhà Minh xâm lược
            Năm 1400, Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, lên làm vua, chưa được một năm thì nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, lên làm Thái Thượng Hoàng. Đặt tên nước là Đại Ngu (1)
            Hồ Quí Ly sai sứ sang Tầu cầu phong, giả nói là con cháu nhà Trần không còn ai nên phải làm vua. Vua Thành Tổ nhà Minh phong cho Hồ Hán Thương làm An-Nam Quốc Vương.
            Năm 1404, Trần Khang, xưng là Trần Thiểm Bình, con vua Trần Nghệ Tông, lẻn sang Nam Kinh, tố cáo việc Hồ Quí Ly cướp ngôi.
            Vua Minh từng có ý muốn xâm lăng nước ta nên lấy cớ ấy để động binh. Ban đầu, vua Tầu đòi đất Lộc Châu. Hồ Quí Ly không chịu nhưng sau đó phải cắt 59 thôn ở Cổ Lâu mà nhường cho Tầu. Vua Tầu cũng không bỏ ý đồ xâm lăng nước ta.
            Hồ Quí Ly cho đắp thành Đa-Bang (Sơn Tây bây giờ), để ngăn đường bộ, đóng cọc trên sông Bạch Hạc để ngăn đường thủy, chia quân đóng các nơi hiểm yếu.
            Năm 1406, vua Tầu sai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung chỉ huy 5 ngàn quân đưa Trần Thiểm Bình về nước.
            Hồ Quí Ly cho quân đón đánh ở Chi Lăng, bắt Trần Thiểm Bình, giết đi, chuẩn bị binh lính chờ quân Tầu sang để chống lại.
            Vua nhà Minh viện cớ Hồ Hán Thương giết Trần Thiểm Bình, bèn sai Chu Năng làm đại tướng, cùng Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân làm 2 đạo sang đánh nước ta. Trên đường đi, Chu Năng chết, Trương Phụ lên thay.
            Quân Trương Phụ theo đường ải Nam Quan mà xuống Nam Việt. Đạo quân của Mộc Thạnh theo đường Tuyên Quang.
“Giặc ngoài xâm lăng, toàn dân… hớn hở”
            Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần lên làm vua, nên không được lòng dân. Quân nhà Minh lại dùng kế ly gián vua tôi, “giương cao ngọn cờ chính nghĩa giả dối” Phù Trần diệt Hồ, nên dân chúng không ủng hộ nhà Hồ. Quân Minh đánh đâu thắng đó. Quân nhà Hồ phải rút về giữ thành Đa-Bang. Quân Minh thừa thắng đánh mạnh vào Đa-Bang, thành nầy thất thủ. Quân Minh tiến xuống sông Hồng, đi đến đâu, đốt phá nhà cửa đến đấy, giết dân lành, bắt đàn bà con gái, rồi đánh lấy Thăng Long.
Trận Mộc Phàm Giang
            Hồ Quí Ly cùng Hồ Nguyên Trừng (anh của Hồ Hán Thương) thua trận lui về đóng quân ở Hoàng Giang. Mộc Thạnh đến đóng ở sông Mộc Phàm. Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiến thuyền đánh Mộc Thạnh, bị đánh úp, thua bỏ chạy.
            Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được các tướng Hồ Đỗ và Hồ Xạ đem quân đến giúp. Nguyên Trừng rước Hồ Quí Ly từ Thanh Hóa ra, lại đem quân về đóng ở Hoàng Giang, bàn cách chống giặc.
Trận Hàm Tử quan
            Quân nhà Hồ bây giờ mạnh lên đôi chút, tiến lên đánh quân Minh ở Hàm Tử. Hai bên đánh nhau rất dữ, quân nhà Hồ thua to, một số đầu hàng, một số chết đuối, hoặc bỏ chạy cả.
            Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương chạy về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi tiếp, quân nhà Hồ không đánh mà tan.
Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm, nói với Hồ Quý Ly rằng: “Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi còn hơn!” Hồ Quý Ly giận lắm, chém Ngụy Thức rồi chạy vào Nghệ An.
Cha con Hồ Quí Ly bị giặc bắt.
            Quân Tầu chia hai mặt thủy bộ vào đánh Nghệ An, bắt được cha con nhà Hồ trốn ở núi Cao Vọng. Các quan nhà Hồ, người thì hàng, người bị bắt, người không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.
            Nhà Hồ làm vua được 7 năm.
            Sử Gia Trần Trọng Kim nhận xét như sau: “Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người!

Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly?”
(VNSL Phần 3,
chương 11)
Nhà Hậu Trần, Giản Định Đế
            Vua Minh giả danh “Phù Trần diệt Hồ” nhưng bắt được người nào con cháu họ Trần thì giết đi, để có cái cớ vì không còn ai là con cháu họ Trần nên “buộc lòng” phải cai trị nước ta.
            Bấy giờ, năm 1407,  có người con thứ của vua Trần Nghệ Tông tên là Trần Quỹ, đang trốn tránh ở vùng Ninh Bình, được Trần Triệu Cơ đem binh lính theo giúp, bèn xưng la Giản Định Đế. Quân Minh đến đánh, Giản Định Đế thua chạy vào Nghệ An.
            Khi ấy có ông Đặng Tất, đã ra hàng với nhà Minh, được phong làm quan nhưng bỏ quan theo Giản Định Đế chống quân Minh. Nhà Trần khôi phục được Nghệ An.
Trận Bồ Cô
            Mộc Thạnh và Lữ Nghị đem quân vào đánh. Hai bên giáp chiến ở Bồ Cô. Lữ Nghị bị chém, Mộc Thạnh rút quân về Nam Định.
            Thế lực đang lên, nhưng Giản Định Đế lại nghe lời dèm pha, bắt Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân giết đi, làm cho binh lính bất mãn, chia rẽ.
Vua Trần Trùng Quang (Quí Khoách)
            Con của Đặng Tất là Đặng Dung, và con của Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị thấy cha mình bị giết, bèn bỏ Giản Định Đế, đem quân vào Thanh Hóa, rước Trần Quí Khoách đang ở Hà Tĩnh lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.
            Trần Quí Khoách sai tướng ra bắt Giản Định Đế đem về Nghệ An, tôn lên làm Thái Thượng hoàng, cùng nhau lo chống giặc.
Trương Phụ lại sang nước ta
            Sau khi dẹp xong nhà Hồ, Trương Phụ về Tầu. Nay thấy bên ta tình hình không yên, vua nhà Minh lại sai Trưong Phụ sang lần nữa, lo việc đánh dẹp.
            Sang đến nơi, Trương Phụ đem quân đánh Giản Định Đế. Giản Định thua chạy về Sơn Tây thì bị bắt, giải về Tầu.
Trương Phụ là người tàn ác. Sách VNSL viết về y như sau:
“Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. Còn những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!”
            Khi Trương Phụ đem quân đánh vua Trần Trùng Quang ở Nghệ An, vua Trùng Quang thua, chạy vào Thuận Hóa. Trước đó, vua Trùnh Quang đã từng sai sứ sang Tầu cầu hòa. Vua nhà Minh không cho, lại giết sứ thần của vua Trùng Quang. Nay ở thế cùng, vua Trùng Quang lại sai Nguyễn Biểu sứ, gặp Trương Phụ xin giảng hòa. Trương Phụ không cho. Nguyễn Biểu giận, mắng Trương Phụ rằng: “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung ngược!” Trương Phụ tức giận đem giết đi. (xem Bài đọc thêm về Nguyễn Biểu).
            Năm 1413, Trương Phụ đem quân vào Thuận Hóa đánh vua Hậu Trần. Nguyễn Súy với Đặng Dung đem quân đánh úp Trương Phụ. Nửa đêm, Đặng Dung vào được thuyền Trương Phụ nhưng không biết mặt y, nên y nhảy xuống sông trốn mất.
            Thế lực nhà Hậu Trần yếu lắm, bị Trương Phụ đánh đuổi, chạy trốn vào núi, chẳng bao lâu sau đều bị bắt cả. Trên đường giải về Tầu, vua quan đều tự tử. Nhà Hậu Trần dứt nghiệp, tính ra chưa được 7 năm
            Về Đặng Dung, VNSL viết như sau:
“Đặng Dung giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
“Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng:
Thế sự du du nại lão hà!
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!

Dịch:
Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

2)-Lê Lợi khởi nghĩa
            Chính sách cai trị của nhà Minh rất tàn ác, ngoài sưu cao thuế nặng, còn bắt dân ta lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, xuống biển mò ngọc trai. Chúng lại còn dùng “chính sách Hán hóa”, để biến người Việt thành người Tầu, từ phong tục tập quán, học hành thi cử, tôn giáo, tế tự, v.v… việc gì cũng theo cách thức bên Tầu cả. Bao nhiêu sách vở của ta chúng buộc đem đốt đi, phá hủy, hoặc cho chở về Tầu để dùng.
Mười năm bình định giặc Minh.
            Bấy giờ có người anh hùng nổi lên khởi nghĩa, sau mười năm chống nhau với giặc, đuổi quân Tầu ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho nước nhà.
            Người ấy là ông Lê Lợi, quê ở Thanh Hóa, làm nghề nông, giàu có, tính tình hào hiệp, cao thượng, thường hay giúp đỡ người nghèo khó, được nhiều người khâm phục. Quan nhà Minh nghe tiếng, dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ cho người!”
            Sau khi chiêu tập hào kiệt, binh mã, tích dấu lương thực, đầu năm 1418, Lê Lợi cùng Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch cho dân chúng biết mục đích của mình.
            Ban đầu, quân lính còn ít, thế lực yếu, nghĩa quân Lê Lợi thường bị quân Tầu đánh đuổi nhiều lần, khó khăn vất vả, sau mới giành được thế mạnh.
Về Chí Linh lần thứ nhất
            Nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa, tướng Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô (Thanh Hóa), đem quân đến đánh. Mã Kỳ bị phục binh phải thua, nhưng quân Lê Lợi còn yếu, không chống nỗi giặc, phải chạy về Chí Linh. Vợ con Lê Lợi bị giặc bắt.
Về Chí Linh lần thứ hai.
“Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”
            Năm sau, Bình Định Vương đánh đồn Nga Lạc (Thanh Hóa), giết tướng giặc là Nguyễn Sao, nhưng lại phải lui về Chí Linh cố thủ lần nữa.
            Quân Minh biết nghĩa quân còn yếu, bèn vây Chí Linh.
Tình thế bấy giờ nguy cấp, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi:

“Nay thế trận hiểm nguy, có ai dám làm như Kỷ Tín đời Hán, thân khoác hoàng bào mà hi sinh thay ta không?”

Lê Lai nói:
“Tình hình nguy khổn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng, bao công sức đây hãy còn gì. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?”
Lê Lợi vái trời khấn rằng:

“Lê Lai có công đổi áo, nếu sau này khôi phục nghiệp xưa, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn.”
Lê Lai đem 2 voi và 500 quân kéo tới trại quân Minh khiêu chiến. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai thúc ngựa xông thẳng vào giữa trận hô to:
Ta là chúa Lam Sơn đây!
Quân Minh ngỡ là Lê Lợi nên xúm lại. Hai bên đánh nhau rất quyết liệt. Lê Lai bị quân Minh bắt được đem giết đi.
Năm 1428, sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi phong Lai được truy tặng là “Sùng trung Đồng đức hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần”
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 âm lịch (1433), trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.
Bình Định Vương lui về Lư Sơn
            Thoát được vòng vây, Lê Lợi đem quân về đóng ở Lư Sơn. Bấy giờ nhiều nơi nổi lên chống giặc, quân Minh phải bận bịu đánh dẹp, nhờ vậy, Lê Lợi có thời gian củng cố lực lượng của mình.
            Sau đó không lâu, Bình Định Vương trên đường đem quân đánh Tây Đô, lại gặp quân Minh ở Thi Lang, hai bên đánh nhau. Quân Minh thua chạy, Lê Lợi đem quân về đóng ở Lỗi Giang.
Gặp Nguyễn Trãi ở Lỗi Giang.
            Nguyễn Trãi, đổ Thái Học Sinh đời Hồ, là con ông Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh đổ tiến sĩ, làm quan đời nhà Hồ. Khi nhà Minh sang xâm lăng, bắt được ông, giải về Tầu. Nguyễn Trãi theo cha khóc lóc. Khi tới cửa Nam Quan, Phi Khanh bảo con: “Con phải trở về lo rửa hận cho cha, trả thù cho nước, để tiếng thơm muôn đời, chớ đi theo cha khóc lóc, thử hỏi có ích gì?!”.

            Vâng lời cha, Nguyễn Trãi trở về viết sách bình ngô. Nghe tin Lê Lọi khởi nghĩa, Nguyễn Trãi tìm đến, gặp Bình Định Vương ở Lỗi Giang, ông dâng sách bình ngô. Bình Định Vương ưng ý lắm, giữ ông lại làm tham mưu, cùng lo việc chống giặc.
Bình Định Vương phá quân Trần Trí
            Cuối năm 1421, tướng Minh là Trần Trí đem quân đánh Bình Định Vương. Nhân khi quân Minh đi đường xa, nhọc mệt, Bình Định Vương cho quân đánh úp, cướp trại giặc, giết hơn 1 ngàn tên. Hôm sau, Trần Trí dốc toàn lực đánh lại nghĩa quân nhưng không thắng được, phải lui về Tây Đô.
Lại lui về Chí Linh lần nữa
            Đầu năm sau, Bình Định Vương đem quân đánh dồn Quan Gia, bị phản công, Bình Định Vương thua chạy về Khôi Sách. Quân Minh vây Khôi Sách rất ngặt, nghĩa quân phải liều chết phá vòng vây, chạy về Chí Linh.
            Tình thế Bình Định Vương bấy giờ nguy ngập lắm: Lương thực không có, binh sĩ phải làm thịt cả voi ngựa mà ăn. Tướng sĩ mỏi mệt. Bình Định Vương phải xin hòa. Quan nhà Minh thấy đánh Vương mãi cũng không được, bèn cho hòa.
            Năm 1423, Bình Định Vương đem quân về đóng ở Lam Sơn. Tướng Minh thường đem biếu Vương thóc lúa, trâu ngựa, cá mắm. Vương cũng cho đem vàng bạc tạ lễ. Sau bọn Trần Trí nghi Vương giả hòa, bèn bắt giữ sứ của Vương, Vương bèn tuyệt giao.
Chiếm Nghệ An
            Năm 1424, Bình Định Vương hội các tướng bàn thế đánh quân Minh. Lê Chích đề nghị hãy chiếm Nghệ An, để làm chỗ cứ địa, sau sẽ đánh ra Bắc. Vương cho là phải.
            Quân Bình Định Vương đánh thắng một loạt: Đánh đồn Đa Căng, Lương Nhữ Hốt bỏ chạy. Trần Trí, Phương Chính đem quân cứu viện, bị Vương đánh bại, chém tướng giặc là Trần Trung, giết hơn 2 ngàn địch, bắt được 1 trăm con ngựa, tiến đánh đồn Trà Long, Cầm Bành xin hàng.
            Thấy thế lực của Bình Định Vương ngày càng mạnh, bọn quan nhà Minh phải tâu về cho vua nhà Minh hay. Vua Tầu sai Thưọng thư Trần Hiệp sang lo việc đánh dẹp Lê Lợi. Trần Hiệp dâng sớ về Tàu kể tội bọn Trần Trí, Phương Chính. Vua Tầu buộc bọn nầy phải lo đánh dẹp nghĩa quân của Vương. Dó đó, Trần Trí, Phương Chính đem quân đánh Bình Định Vương.
            Biết giặc sắp đánh, Vương sai Đinh Liệt đem quân phục sẳn ở phía bắc sông Lam, chờ giặc. Vương lại cho làm nghi binh ở Khả Lưu để đánh lừa giặc. Khi quân Minh tiến lên thì bị phục binh, Chu Kiệt bị bắt, Hoàng Thành bị chém. Trần Trí phải lui về giữ Nghệ An.
            Năm sau, Vương đem quân đánh Nghệ An. Dân chúng nghe tin, mừng rỡ, đem trâu rượu đón rước quân sĩ. Vương ra nghiêm lệnh, không cho binh lính quấy nhiễu dân chúng. Quan các châu huyện ra hàng, lại xin tình nguyện đem quân đánh giặc Minh.
            Bình Định Vương cho quân đánh thành Nghệ An. Bọn Trần Trí cố thủ, không dám ra kháng cự. Tướng Minh là Lý An từ Đông Đô (Thăng Long) đem quân vào cứu. Quân Trần Trí trong thành nhân thế mới kéo ra. Vương dùng phục binh đánh tan quân giặc. Bọn Trần Trí thua chạy về Đông Đô. Bọn Lý An rút vào thành Nghệ An cố thủ.
Chiếm Tây Đô
            Tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 3 trăm thuyền lương từ Đông Quan vào tiếp tế cho Nghệ An, bị Đinh Lễ đánh đuổi, cướp hết thuyền lương của giặc. Thừa thế, Đinh Liễn đuổi Trương Hùng chạy ra Thanh Hóa (Tây Đô). Đinh Liễn vây thành. Được tin ấy, Vương sai Lưu Nhân Chú, Lê Sát đem quân tiếp ứng.
Lấy Hóa Châu
            Vương sai Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ đem quân đánh Thuận Hóa. Hai tướng của Vương đánh bại tướng Minh là Nhâm Năng ở Bố Chính (Quảng Bình) rồi chiếm toàn bộ phía nam, mộ thêm mấy vạn binh lính để tăng cường cho quân của Vương.
            Thế lực của Bình Định Vương ngày càng mạnh, các tướng tôn Vương là “Đại Thiên Hành Hóa”, có nghĩa là thay Trời làm mọi việc”.

Tiến ra Đông Đô (Thăng Long)
            Đoán chừng quân Minh tập trung ở Nghệ An, Đông Đô không có bao nhiêu, nên Bình Định Vương quyết định kéo quân ra chiếm Đông Đô.
            Lý Triện, Phạm Văn Xảo,  Đỗ Bí đem quân đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng… để chặn đường quân Minh từ Vân Nam xuống.
            Lưu Nhân Chú, Bùi Bị đánh Thiên Trường, Kiến Xương… để chặn đường Lưỡng Quảng.
            Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đánh thẳng vào Đông Quan (Thăng Long).
            Lý Triện, Phạm Văn Xảo sau khi chiếm Quốc Oai, Tam Đái, rồi lại quay về đánh vào Thăng Long.
            Nghe tin, Trần Trí đem quân về đóng ở Ninh Kiều, bị Lý Triện đánh bại, thua chạy về Ninh Giang. Có tin quân Vân Nam sang cứu, Lý Triện sai Phạm Văn Xảo đem một ngàn quân đánh chặn đường, còn Lý Triện, Đỗ Bí đem quân đánh Trần Trí. Trần Trí thua chạy, Lý Triện đuổi theo, giết hơn 1 ngàn quân  Minh, chém tướng giặc là Vi Lạng. Xong Lý Triện kéo quân đến phụ với Phạm Văn Xảo chặn đường quân Tầu từ Vân Nam sang. Hai bên giáp chiến, quân cứu viện của Tầu thua, chạy về giữ thành Tam Giang.
            Trần Trí cầu cứu với quân Phương Chính ở Nghệ An. Phương Chính sai Thái Phúc ở lại giữ thành còn tự y đem quân theo đường thủy ra đánh Đông Quan.
            Vương sai quân vây chặt Nghệ An, còn Vương đem quân đánh Thanh Hóa, không phá được thành, Vương về đóng ở Lỗi Giang.
            Thấy thế lực của Bình Định Vương ở nước Nam mạnh lắm, vua nhà Minh bèn sai Chinh Di Đại Tướng Công Vương Thông cùng Mã Anh đem năm chục ngàn quân sang cứu.
            Sang đến Đông Quan, Vương Thông hội các tướng bàn việc đánh Bình Định Vương.
            Lý Triện, Đỗ Bí dùng phục binh đánh bại quân Mã Kỳ Tam La (ranh giới Thanh Oai và Từ Liêm), giết hơn 1 ngàn tên, lại đuổi riết tới làng Nhân Mục (huyện Thanh Trì), bắt sống thêm 5 trăm quân nữa. Mã Kỳ một người, một ngựa chạy thoát được.
            Lý Triện thừa thế đem quân đánh Phương Chính, Phương Chính sợ, chưa đánh đã lui.
Trận Tụy Động (1426)
            Khi Lý Triện đem quân đánh Vương Thông, quân Minh giả bộ chạy để dùng phục binh đánh quân ta. Lý Triện thua, gọi Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.
            Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem quân đến, giàn trận ở Tụy Động và Chúc Động. Bấy giờ cả 3 tướng của Bình Định Vương biết mưu của Vương Thông sẽ đánh úp, bèn dùng mưu ấy mà đánh lại quân Vương Thông.
            Quả nhiên, quân nhà Minh mắc mưu, bị đại bại. Thượng thư Trần Hiệp và Lý Lượng bị chém, binh lính chết hơn 5 chục ngàn, bị bắt hơn 10 ngàn, khí giới mất rất nhiều. Vương Thông, Mã Kỳ, Phương Chính rút vào thành Đông Quan cố thủ. Đinh Lễ vây thành rồi báo tin mừng cho Bình Định Vương ở Lỗi Giang biết.
            Bình Định Vương cho quân giữ các mặt rồi tự mình đem quân đóng gần Đông Quan (Thăng Long). Sau trận Tụy Động nầy, Bình Định Vương nắm chắc phần thắng trong tay.
Vây Đông Quan. Vương Thông xin bãi binh
            Vương Thông thấy đánh không lại Bình Định Vương, bèn xin cho lập người họ Trần lên làm vua để bãi binh. Bình Định Vương cũng nghĩ đánh nhau mãi chỉ làm cho binh sĩ và dân chúng khốn khổ nên đồng ý, cho lập Trần Cao, cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông lên làm vua. Bình Định Vương tự xưng là Vệ Quốc Công. Chờ ngày Vương Thông rút quân về nước.
            Bấy giờ có mấy người nước Nam như Lương Nhữ Hốt, Trần Phong từng theo quân Minh, sợ Vương Thông về nước thì sẽ bị tội, bèn xúi Vương Thông đừng hòa. Vương Thông lén cho người về Tầu xin viện binh.
            Bình Định Vương bắt được người đua thư, bèn cho quân đánh chiếm các thành trì quân Minh còn giữ được. Tướng nhà Minh là Thái Phúc, Tiết Tụ đều ra hàng cả. Xong, Bình Định Vương sai tướng đánh vào thành Đông Quan.
Liễu Thăng bị giết ở núi Mã Yên Sơn (Chi Lăng)
            Nghe tin Vương Thông bại trận, năm 1427, vua nhà Minh vội sai Chinh lỗ Phó Tướng quân An Viễn hầu Liễu Thăng, cùng các tướng Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc… chỉ huy một trăm ngàn quân theo đường Quảng Tây xuống đánh Bình Định Vương. Vua Minh lại sai đại tướng Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung tiến vào nước ta theo đường Vân Nam.
            Bấy giờ Bình Định Vương nghĩ rằng không cần đánh Đông Quan, vì nếu đánh bại viện binh thì bọn trong thành ắt phải đầu hàng. Chiến thuật của Bình Định Vương là “dĩ dật đãi lao”, nghĩa là lấy quân khỏe để đánh quân mệt. Xong, Bình Định Vương cho quân đóng giữ các nơi hiểm yếu.
            Tướng của Bình Định Vương là Trần Lựu đang giữ ải Ba Lũy, thấy quân Tầu đến, liền lui về giữ ải Ai Lưu. Giặc đánh Ai Lưu, Trần Lựu lui về Chi Lăng. Quân Minh tiến đến đâu, quân Nam rút lui, không chống cự gì cả, làm cho Liễu Thăng lầm tưởng quân Nam hèn nhát. Bình Định Vương lại làm kế nhát sợ, sai người đưa thư cho Liễu Thăng xin lập Trần Cao làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng ỷ thế đang thắng, không thèm đọc thư, cứ cho quân tiến tới.
            Khi Liễu Thăng tiến gần đến ải Chi Lăng, Trần Lựu đem quân ra đánh rồi giả thua chạy. Liễu Thăng đắc ý, đem 100 quân kỵ đi trước, để đại quân đi sau. Đi được môt lúc, Liễu Thăng đến chỗ sình lầy, ngựa không đi được thì phục binh đổ ra đánh, chém chết Liễu Thăng. Chỗ ấy là núi Đạo Mã Pha, bây giờ có tên là Mã Yên Sơn. Hôm ấy là 20 tháng 9 năm Đinh Mùi. Quân Minh đại bại.
            Lê Sát, Trần Lựu, Lê Lý cùng đem quân đánh đuổi quân Minh, chém chết Lương Minh. Lý Khánh tự tử. Hoàng Phúc, Thôi Tụ tính chạy về Xương Giang, nhưng thành ấy đã bị Trần Nguyên Hãn chiếm mất rồi, phải lập trại giữa đồng để chống giữ.
            Thừa thắng Bình Định Vương sai Trần Nguyên Hãn, Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí, một mặt thì chặn đường lương thực, một mặt tấn công quân Hoàng Phúc, Thôi Tụ. Hoàng Phúc bị bắt, Thôi Tụ bị giết.
            Bình Dịnh Vương lại sai thả những tên tì tướng của Liễu Thăng sai đến báo tin Liễu Thăng bị giết cho Mộc Thạnh hay. Mộc Thạnh sợ hãi cho quân rút chạy về Tầu.
            Bình Định Vương sai đem hổ phù và hai dấu đài ngân của Liễu Thăng đưa vào thành cho Vương Thông hay. Biết viện binh đã thua, Vương Thông, một lần nữa, lại xin hòa.
Chính sách giao thiệp khôn khéo của Bình Định Vương
Bấy giờ có người tâu với Bình Định Vương, ngày trước người Minh tàn ác lắm, nên giết cả đi. Bình Định Vương bảo:“Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh”.
Xong, bình Định Vương cấp cho Phương Chính, Mã Kỳ quản lính 500 chiếc thuyền theo đưòng thủy mà về nước; cấp cho Hoàng Phúc, Sơn Thọ lương thảo theo đường bộ về nước. Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.
Đánh dẹp quân giặc xong rồi, Bình Định Vương sai Nguyễn Trãi viết tờ “Bình Ngô Đại Cáo” báo cho dân chúng đều biết.
(1)-Tổ tiên Hồ Quí Ly gốc là người nước Ngu (Chiết Giang) bên Tầu. Khi làm vua. Ông đặt tên nước là Đại Ngu.
(2) Phụ Lục
Vua Trần Trùng Quang
Tiễn Nguyễn Biểu Đi Sứ
                        Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa
                        Trịnh trọng rầy nhân dựng khúc ca
                        Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ
                        Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha
                        Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ
                        Khương quế thêm cay tính tuổi già
                        Việc nước một mai công ngõ vẹn
                        Gác lân danh tiếng dọi lầu xa


            Vài hàng lịch sử:
            “Tháng tư năm quí tỵ (1413) Trương Phụ đem quân đánh Nghệ An, quân Quí Khoách (vua Hậu Trần Trùng Quang – tg), bấy giờ mười phần chỉ còn ba bốn, lương thực lại không có, phải bỏ chạy vào Hóa châu.
            “Trước Quí Khoách đã mấy lần cho người sang Tầu cầu phong, Minh-đế không cho, đem giết sứ thần đi. Nay Quí Khoách lại sai Nguyễn Biểu ra cầu hòa với Trương Phụ. Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đưòng chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sáng lập họ Trần, sau lại đặt quận, huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân, chúng bay thật là đồ ăn cướp hung-ngược!” Trương Phụ tức giận đem giết đi.”
(Việt Nam Sử Lược –
      Trần Trọng Kim – C. 1 tr. 204)
            Cũng theo sách nói trên của Dương Quảng Hàm, trang 294, ông viết:
            “Lại theo sử CM – (q. 12 tr. 36b – 37a) thì “năm Trùng Quang thứ 5 (1413), mùa hạ, tháng tư. Tướng nhà Minh là Trương Phụ đánh Nghệ An, vua Quí Khoách chạy vào Hóa châu… sai người bầy tôi là Nguyễn Biểu đi cầu phong, đem phương vật đến Nghệ An để tặng. Phụ giữ ông lại, ông giận mắng rằng: “Trong thì mưu kế đánh lấy nước người, ngoài thì phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói rằng lập con cháu nhà Trần, nay lại chia đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn tàn hại sinh dân, thật là đồ ngược tặc.” Phụ giận đem giết đi.
            Ở phần ghi chú sách nầy, Dương Quảng Hàm có giới thiệu tiểu sử Nguyễn Biểu như sau:
            “Nguyễn Biểu: Người xả Bình-hồ, huyện Chi-la, Nghệ-an (nay là xã Yên-hồ, huyện La-sơn, phủ Đức-thọ, tỉnh Hà-tĩnh). Đậu thái-học sinh đời nhà Trần, sung chức Điện-tiền thị-ngự-sử.
            Trương Phụ cho cột Nguyễn Biểu vào cây cột cầu ở chùa Yên Quốc. Nguyễn Biểu không ngớt chưởi mắng Trương Phụ. Đến khi nước thủy triều lên, Nguyễn Biểu chết ngộp vì nước lớn. Do sự kiện nầy nên vị sư chùa Yên Quốc có làm bài kệ khi làm lễ tế Nguyễn Biểu.
            Giải thích bài thơ:
            Hoàng Hoa:
            Sách “Điển Cố Văn Học” của Đinh Gia Khánh giải thích:
            1.- Tức Hoàng hoàng giả hoa (Những bông hoa rực rở khắp nơi) tên một thiên trong thơ Tiểu Nhã (kinh Thi), kể việc vua tiễn biệt dặn dò sứ thần sắp lên đường.
                        Mấy vần thơ cũ ngợi Hoàng hoa
                        Trịnh trọng rày nhân dắng khúc ca.
                                                            (Trần Trùng Quang)
            2.- Nơi đồn thú xa xôi, Hoàng hoa là hoa cúc. Hoa cúc nở vào mùa thu, tháng chín. Quân lính thời xưa ra đi phòng thủ ở các đồn ải xa vào mùa thu năm trước thì đến mùa thu năm sau lại được về. Như vậy gọi là hoàng hoa thú. Thơ Thẩm Thuyên Kỳ: “Văn đạo hoàng hoa thú, Tần niên bất giải binh” (Nghe nói việc đi thú, mà mấy năm không giải binh).
                        Xót người lần lữa ải xa,
                   Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài.
                                                            (Chinh Phụ ngâm)
            Hai câu đề ý nói nay nhân chuyện đi sứ cầu hòa, vua, với vẻ nghiêm trọng. “Dắng”, tiếng Việt cổ, là “dặn dò” mấy lời.
            Chiếu phượng: Chiếu của nhà vua, (có vẽ hình chim phượng), ghi những lời dặn cặn kẻ chân tóc kẻ tơ (Tơ cặn kẻ).
            Vó câu: Vó ngựa câu (loại ngựa cỡi đi xa, khác với Vó ký là ngựa ký, loài dùng để kéo xe nặng nhọc: “Xe muối nặng nề thương vó ký” – Ngô Đình Diệm – Xem so sánh hai bài thơ cụ Hồ và thơ cụ Ngô, cùng tác giả). Ngàn dặm: Ý nói đi xa. Tuyết xông pha: Xông pha sương tuyết, nghĩa bóng phải chịu cảnh “dầm sương giải tuyết”, tức sự cực khổ.
            Tang bồng: Cây cung bằng gỗ dâu (Tang), tên bằng cỏ bồng.
            Sách Điển Cố Văn Học nói trên, trang 481, giải thích:
            Tang Bồng:
            Cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng.
            Theo Kinh Lễ khi nhà vua sinh con trai, quan coi việc bắn lấy cung bằng gỗ dâu và có tên bằng cỏ bồng, bắn bốn phát ra bốn phương, và một phát lên trời, một phát xuống đất, ngụ ý rằng người làm trai chí lớn ở bốn phương, tung hoành giữa trời đất, ôm hoài bảo giúp nước giúp đời.
            Nói về chí làm trai.
                        Bấy lâu đèn sách ra công
Con đà nên chữ tang bồng nầy chăng.
(Nguyễn Đình Chiểu)”
            Cũng có khi gọi là tang bồng hồ thỉ. Thơ Nguyễn Công Trứ có câu:
                        Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái
                        Cái công danh là cái nợ nần.
            Cũng có khi gọi là Hồ thỉ:
                                   
                                    Dạy rằng: Hồ thỉ chí trai
                        Tìm thầy hỏi bạn chi hoài, bỗng dưng
                                                            (Nguyễn Huy Tự)

            Ngày xưa, bên Tàu cũng có tục mỗi khi trong nhà sinh con trai thì treo một cành dâu trước cửa.
            (Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa cũng có tục, sau mấy tuần huấn nhục, khóa sinh phải trèo lên đỉnh Lâm Viên rồi mới làm lễ nhập khóa học. Trong lễ nầy, người trưởng tràng, thay mặt khóa sinh, bắn bốn mũi tên vào bốn hướng để tỏ rõ cái chí khí của người làm trai).
            Nhà vua khen ngợi Nguyễn Biểu ngay khi còn trẻ đã có cái chí khí của người con trai.
            Khương Quế: Khương là gừng, quế là quế. Gừng và quế đều cay.
            Sách Điển Cố Văn học giải thích:
            “Lý đạo trường biên: “Khương quế chi tính đáo lão dũ lạt” Tính chất của gừng và quế đến khi già lại càng cay.
            Nói về người già càng hăng hái.
            Hai câu kết: Hứa hẹn khen thưởng. Một mai khi việc nước vẹn toàn, sẽ được ghi công ở Kỳ Lân Các, tức là gác công thần.
            Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim viết:
            “Vua lại sai văn thần ghi-chép công-trạng của các tướng, hợp biên làm cuốn sách gọi là “Trung hưng thực-lục” và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.
            Câu cuối cùng ý nói như việc làm của vua nhà Trần (Tiên đế) đã từng làm với các tướng có công trạng trong việc đánh đuổi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta ngày trước.
Bài thứ tư:
Bài họa Của Nguyễn Biểu:
                        Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa
                        Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca
                        Đường mây vó ký lần lần trải
                        Ải tuyết cờ mao thức thức pha
                        Há một cung tên lồng chí trẻ
                        Bội mười vàng sắt đúc gan già
                        Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối
                        Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa

Giải thích:
            Trước bệ hoa (bệ rồng, bệ vua ngồi), (Nguyễn Biểu) nghe tiếng vua dặn dò (tiếng ngọc), ngóng tai nghe lời vua dạy bảo. Đường đi sứ, thường gọi theo nghĩa bóng là đường mây. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu “Sứ trời sớm giục đường mây” cũng có ý nghĩa như thế. Vó ký là vó con ngựa ký, loài ngựa dùng để kéo xe nặng nhọc. “Xe muối nhọc nhằn thương vó ký” – Ngô Đình Diệm – Nơi biên ải có cờ treo, nơi người đi sứ phải vượt qua. Lúc trẻ đã mang dòng máu anh hùng (cung tên). Càng về già thì ý chí càng vững, gan càng bền. Chỉ sợ mình thiếu tài ứng đối khi đi sứ chứ không ngần ngại đường đi sứ xa xôi khó nhọc, nguy hiểm.
Bài thứ năm:
Cổ Đầu Người
                        Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
                        Gia hào thêm có cổ đầu người
                        Nem cuông chã phượng còn thua béo
                        Thịt gũ gan lân cũng kém tươi
                        Ca lối lộc minh so cũng một
                        Đọ bề vàng sắt bội hơn mười
                        Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn
                        Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời

Câu chuyện lịch sử và giải thích:
            Như phần trên đã nói, trước tình thế khó khăn, vua Trần Trùng Quang sai Nguyễn Biểu đi sứ cầu hòa. Trương Phụ không cho hòa, còn bắt giữ Nguyễn Biểu, khiến ông tức giận chưởi mắng bọn tướng Tàu giả nhân giả nghĩa. Trương Phụ giận lắm, nhưng trước khi giết Nguyễn Biểu, Phụ muốn thử cái gan dạ của người Nam như thế nào bèn sai nấu một cái đầu lâu trong nồi mời Nguyễn Biểu ăn. Nguyễn Biểu biết ý Trương Phụ và muốn tỏ rõ cho y thấy người Nam gan dạ như thế nào, bèn lấy đũa gắp hai con mắt ăn trước, nhắp chén rượu làm bài thơ “Cổ đầu người”.
Cổ là một bữa cổ, bữa tiệc. Ngọc thiện trân tu là những món ăn quí hiếm, ông ăn đã đủ mùi rồi; nay ăn thêm cổ đầu người cho biết như thế nào. Món ăn nầy béo lắm, nem công (cuông – tiếng cổ), chã phượng còn thua. Thịt con gũ, gan con lân cũng không tươi bằng. So với lộc minh cũng chỉ là một; đọ với vàng sắt, miếng ăn nầy hơn thập phần. Món ăn ngon ngọt như thịt vai con lợn. Ăn một miếng để tỏ cái tiếng như Phàn lại đời sau.
            Phàn là Phàn Khoái, dũng tướng của vua Hán Cao tổ và cũng là em rể của nhà vua. Lúc trẻ, ông bán thịt chó ở chợ, sau theo phò Hán Cao tổ đánh nhau với nhà Tần, lập được nhiều công lớn. Khi vua Hán hội ẩm với Hạng Vũ ở Hồng Môn, quân sư của Vũ là Phạm Tăng xúi Vũ nên giết vua Hán để tránh hậu họa.
Trương Lương là tham mưu của Hán Cao tổ, biết ý Phạm Tăng, bàn với Phàn Khoái tìm cách bảo vệ vua. Khoái cầm kiếm đi vào nơi hội ẩm, trừng mắt nhìn Hạng Vũ, làm cho Vũ có ý sợ và kính phục. Vũ sai đem tặng cho Phàn Khoái một đấu rượu và một vai lợn sống. Khoái uống một hơi hết đấu rượu rồi tuốt kiếm xẻ thịt ăn sống. Hạng Vũ khen Phàn Khoái là tráng sĩ. (theo Điển Cố Văn Học)
                                    Bài Văn Tế Cá Sấu
                        Ngạc ngư kia hỡi mày có hay
                        Biển đông rộng rãi là nơi mày
                        Phú lương đây thuộc về thánh vực
                        Lạc lối đâu mà lại đến đây

                        Há chẳng biết rằng nước Việt xưa
                        Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
                        Xuống nước giao long cũng phải chừa
                        Thánh thần nối dõi bản triều nay
                        Dấy từ Hải ấp ngôi trời thay
                        Võ công lừng lẫy bốn phương tĩnh
                        Biển lặng sông trong mới có rày

                        Hùm thiêng ra dấu dân cày cấy
                        Nhân vật đều yên đâu ở đấy
                        Ta vâng đế mệnh bảo cho mày
                        Hãy về biển đông mà vùng vẫy.
            Giải nghĩa:
            Ý tưởng bài nầy tương đối rõ ràng. Mở đầu, bài văn tế xác định rõ vị trí: Cá sấu thì ở ngoài biển khơi, nơi nầy là thánh vực, tức lãnh thổ nhà vua, cá sấu không ở được. Nguởi Việt từ xưa đã quen nghề chài lưới, giao long cũng phải sợ. Đất nước nầy nổi tiếng lừng lậy khap bốn phương, đời sống thanh bình. Nay ta được lệnh ra báo cho mầy để biết mà hãy về biển đông.
            Tôi chưa tìm được “bài kệ của vị sư Chùa Yên Quốc tế Nguyễn Biểu.”
(Trích “Những bài thơ nôm đầu tiên
trong Văn học Việt Nam” – cùng tác giả)
            Đoạn thơ sau đây được coi là lời giã biệt hào hùng và khí phách giữa Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, trước khi cha con chia tay nhau ở Ải Nam Quan.
(3) Hận Nam Quan 
“Con yêu quý, chớ xuôi lòng mềm yếu,
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
Con về đi, tận trung là tận hiếu,
Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang,
Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt
Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh.
Về ngay đi, rồi chí nguyện công thành.
Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm,
Chỉ nghiến răng vung kiếm quét quân thù,
Trãi! Con ơi, tương lai đầy ánh sáng,
Cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …
Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng
Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê.
Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm,
Rời Nam Quan, theo gió con bay về.
Ôi! Sung sướng, trời cao chưa nỡ tắt,
Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan.
Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,
Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.
(Hận Nam Quan – Kịch thơ –
Hoàng Cầm)
(4) Theo sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của Phan Huy Chú thì những sách của nước ta bị bọn quan lại lấy về Tầu gồm có:
- Hình Thư, của vua Thái Tông nhà Lý 3 quyển.
- Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển
- Hình Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển
- Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung 10 quyển
- Khóa Hư Tập 1 quyển
- Ngự Thi 1 quyển
- Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển
- Cơ Cầu Lục 1 quyển
- Thi Tập 1 quyển
- Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông 2 quyển
- Thi Tập 1 quyển
- Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông 2 quyển
- Thi Tập, của Trần Minh Tông 1 quyển
- Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển
- Bảo Hòa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông 8 quyển
- Thi Tập 1 quyển
- Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ
- Tiều Ẩn Thi 1 tập
- Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển
- Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển
- Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên Đán 1 quyển
- Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển
- Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh 1 quyển
- Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển
- Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ 1 quyển
- Việt Nam Thế Chí 1 bộ
- Việt Sử Cương Mục 1 bộ
- Đại Việt Sử Ký, của Lê Văn Hưu 30 quyển
- Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh 1 quyển
- Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên 1 quyển
- Việt Điện U Linh Tập, của Lý Tế Xuyên 1 quyển
Những sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước mình.
            (5) Bình Ngô Đại Cáo
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.

Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương. Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay! Sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tôi; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi!
Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.

            Độc giả hãy đọc đoạn văn sau đây:
“Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo Hóa ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
(Câu mở đầu trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ)

Đoạn mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo, cũng như câu mở đầu bản Tuyên Ngô Độc Lập của Mỹ, mặc dầu cách nhau ba trăm năm, nhưng ý tưởng của Nguyễn Trãi và Jefferson không những không xa nhau, đông tây không hòa hợp mà lại rất nhân bản, đầy những ý tưởng công bằng, hợp lý đối với sự tiến hóa của nhân loại. Công bằng, hạnh phúc, tự do là những tiêu chuẩn để làm Người. Dù có khoảng cách thời gian và văn hóa, trên căn bản ấy, Đông Tây cũng chỉ là một./
C)-Chống Tầu
đời Mạc

Nhà Mạc với Nhà Minh.
            Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc Đỉnh Chi, quê ở Hải Dương, làm nghề đánh cá, thi đổ Đô Lực Sĩ (cử nhân võ), giữ chức Đô Chỉ Huy Sứ thời Lê mạt.
            Năm 1527, Mặc Đăng Dung buộc vua Lê Cung Hoàng thảo chiếu truyền ngôi lại cho ông. Sau đó, Lê Cung Hoàng, Hoàng Thái hậu và những quan trung thành với nhà Lê, không tự tử thì cũng đều bị giết cả.
            Bấy giờ có vài quan cũ nhà Lê trốn sang Tầu cầu cứu và xin viện binh.
            Vua nhà Minh bèn động binh.
            Thật ra, vua nhà Minh chẳng vì tình nghĩa với nhà Lê. Trong lòng vốn sẳn có tham vọng xâm chiếm nước ta, nay nhân cơ hội nầy để thực hiện mưu đồ đó mà thôi.
            Năm 1537, vua nhà Minh sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn đem quân đóng gần ải Nam Quan rồi truyền hịch sang nước Nam, nói hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung đem nạp thì được thưởng. Mặt khác, bọn họ sai người sang nói với Mạc Đăng Dung biểu hễ đem nộp sổ đất đai và dân số và chịu tội thì tha cho tội chết.
            Mạc Đăng Dung bèn sai Nguyễn Văn Thái đi sứ sang Tầu xin cầu hòa.
            Đến năm 1540, khi thấy quân Tầu sửa soạn sang đánh, Mạc Đăng Dung sợ quá, bèn sai Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế, cùng các quan, lên ải Nam Quan, tự trói mình, lạy phục xuống đất, nộp sổ đất đai, dân số cùng dâng đất năm động để xin hàng. Các động đó là: Tê Phù, Kim Lạc, Cổ Xung, Liễu Cát, La Phù (1). Mặt khác, lại đem vàng bạc hối lộ cho quan nhà Minh.
            Quan nhà Minh bề ngoài thì giả bộ hống hách, nhưng cái gương Liễu Thăng chưa mờ trong trí họ. Hơn thế nữa, đã nhận vàng bạc hối lộ rồi thì còn gì gọi là “vì nước” nữa, cho nên bọn quan lại nầy làm sớ dâng lên vua Minh phong cho Mạc Đăng Dung chức Đô Thống Sứ, không phong vương.
            Trong sách VNSL, Trần Trọng Kim phê phán Mạc Đăng Dung như sau:
            “Mạc đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ.

Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.

            Sau khi nhà Lê trung hưng, họ Mạc bị đánh đuổi lên Cao Bằng, phải dựa thế vua nhà Minh sống còn thêm ba đời nữa mới dứt.
(1)-Theo Sử gia Trần Quốc Vượng (miền Bắc VN) thì đất 5 động do Mạc Đăng Dung dâng cho vua nhà Minh, chỉ là đất khống, nghĩa là đất chỉ có trên giấy tờ, không có trên thực địa. Khi đi nhận đất, không thấy đất đó ở đâu cả, quan nhà Minh mới biết bị gạt, giận lắm, nhưng lại được Mạc Đang Dung cho người đút lót vàng bạc nên cũng thôi. Vã lại, bấy giờ nếu có muốn đánh Mạc Đăng Dung thì phải huy động dân binh các vùng Lưỡng Quảng và Vân Nam, việc ấy không phải là không có nhiều khó khăn.
















D)-Quang Trung
đại phá quân Thanh
Nguyễn Huệ ra Bắc Hà
            Sau khi chiếm được thành Phú Xuân rồi, Nguyễn Huệ ý muốn dung quân tại đó. Nếu được Nguyễn Nhạc phong cho chức Bắc Bình Vương thì lãnh thổ của ông là từ đèo Hải Vân với song La Hà ở Hà Tĩnh.
            Bấy giờ có Nguyễn Hữu Chỉnh là người Bắc Hà đi theo Nguyễn Hữu Chỉnh khuyên Nguyễn Huệ đem quân đánh Bác Hà, Nguyễn Huệ ngheo theo nhưng ý thì vẫn muốn đánh dẹp họ Trịnh, hiếp đáp vua Lê đã mấy trăm năm nay, với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, chứ không có ý lấy đất của nhà Lê. Sau khi Trịnh Khải tự tử vì bị bắt, dẹp yên họ Trịnh, Nguyễn Huệ bái yết vua Lê Hiển Tông, được vua Lê gả Ngọc Hân Công Chúa cho, bèn giao quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê rồi rút quân về Thuận Hóa. Ấy là năm 1786.
            Khi vua Hiển Tông băng hà, Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, tức là Lê Chiêu Thống. Trịnh Bồng lại về nắm quyền hành. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đánh Trịnh Bồng, rồi chỉnh lại chuyên quyền. Sau đó, Nguyễn Hữu Chỉnh bị Vũ Văn Nhậm giết đi, thì Lê Chiêu Thống bỏ trốn. Nguyễn Huệ lại ra Bắc lần nữa, lại giao quyền cho Lê Duy Cẩn đang làm giám quốc. Nguyễn Hu ệ lại về Thuận Hóa.
Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh
            Vua Lê Chiêu Thống chạy lên trốn ở vùng Lạng Sơn, còn Hoàng Thái hậu thì đem thái tử sang Tầu xin đem binh cứu viện.
            Vua quan nhà Thanh bấy lâu nay vẫn có ý dòm ngó nước ta, nay nhân cơ hội nầy, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị, làm sớ tâu với vua nhà Thanh nói rằng: “Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường.”
            Người Tầu không bao giờ bỏ cái ý nghĩ “Nước Nam là đất cũ của nước Tầu”, trong khi thực tế thì “Lưỡng Quảng là đất cũ của người nước Nam.”
            Năm 1788, vua Càn Long nhà Thanh nghe lời Tôn Sĩ Nghị bèn lấy binh ở Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam hia làm 3 đạo xâm lăng nước ta: Một đạo đi đường Tuyên Quang, một đạo di đường Cao Bằng do Sầm Nghi Đống chỉ huy. Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh chỉ huy đạo theo đường Lạng Sơn. Tổng Cộng phía Tầu có gần ba trăm ngàn quân.
            Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở đang đóng ở thành Thăng Long, nghe tin quân Tầu sang, biết thế chống không lại, bèn vội dâng sớ về Phú Xuân cho Nguyẽn Huệ hay, rồi kéo binh vè đóng ở ranh giới tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa (đèo Tam Điệp) là chỗ hiểm yếu.
            Khi Tôn Sĩ Nghị đến Bắc Ninh, vua Lê Chiêu Thống ra chào mừng rồi cùng về Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị đóng quân ở mé nam sông Hồng, bắc cầu phao trên song để đi lại rồi cho quân đóng giữ các nơi.
            Nói về sự giao thiệp giữa vua Lê và Tôn Sĩ Nghị, sách VNSL của Trần Trọng Kim viết như sau:
“Ngày hôm sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.
“Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: “Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?”

Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy.
Vua Quang Trung đem quân ra Bắc Hà
            Được tin quân Tầu sang xâm lăng, Bắc Bình Vương họp các tướng bàn việc chống giặc. Để được chính danh, các tướng đề nghị Nguyễn Huệ hãy làm lễ lên ngôi vua rồi mới tiến quân.
            Cuối năm ấy, Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi ở núi Bân (tây-bắc Huế), xưng là Hoàng Đế Quang Trung, rồi tự vua chỉ huy quân ra Bắc.
            Quân của vua Quang Trung bấy giờ chỉ có năm mươi ngàn. Ra đến Nghệ An, vua cho dưỡng quân 10 ngày, tuyển thêm năm mươi ngàn binh nữa, tổng cộng một trăm ngàn. So với quân nhà Thanh là 1 chống 3.
            Khi Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm đến bái yết, vua Quang Trung nói: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa.”

            Vua Quang Trung cho binh lính ăn tết trước, hẹn ngày mồng 7 tết năm đó (kỷ dậu) sẽ vào thành Thăng Long (theo sử thì vua Quang Trung vào sớm 2 ngày, trưa ngày mồng 5 tết).
            Vua Quang Trung chia quân làm 3 đạo tiến ra Bắc Hà:
            -Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Nội Hầu Phan Văn Lân đem quân đi tiên phong. Hô Hổ Hầu chỉ huy quân tiếp ứng.
            -Đô đốc Long chỉ huy cánh quân đánh vào phía tây Thăng Long và đồn Khương Thượng.
            -Đô dốc Tuyết và Đô đốc Lộc chỉ huy thủy quân đánh quân Thanh ở phía bắc song Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn
            -Đô đốc bảo đánh các đồn địch phía nam Thăng Long
            -Vua Quang Trung chỉ huy đại quân phối hợp với đô đốc Bảo và Đô đốc Long.
            Đêm 30 tháng Chạp diệt đồn Giản Khẩu do quân vua Lê Chiêu Thống đóng giữ. Sau đó, diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo. Đồn Hà Hồi xin hàng.
            Đêm mồng 4 Tết, quân vua Quang Trung vây đồn Ngọc Hồi là đồn lớn nhất của quân Thanh.
            Đồng thời quân của Đô đốc Long bất ngờ tấn công đồn Khương Thượng, giết hàng ngàn tên địch. Tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống tự vẫn, xác quân Thanh gom lại thành đống lớn, tục gọi là Gò Đống Đa. Đô đốc Long lại tiến đánh địch ở Tây Long.
            Vua Quang Trung cùng Đô đốc Bảo tấn công đồn Ngọc Hồi.
            Chiến thuật của vua Quang Trung là đánh mạnh và nhanh, diệt gọn, nghĩa là không cho tên địch nào chạy thoát, thành ra địch quân trong các đồn của chúng không biết tin gì của nhau cả, đến khi quân Tây Sơn tiến đánh mới hoảng hốt lo sợ.
            Trong khi vua Quang Trung ấn công đồn Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị được tin Đô đốc Long đang tiến quân đánh Thăng Long, liền hoảng hốt bỏ chạy. Tôn Sĩ Nghị sợ quân Tây Sơn đuổi theo nên ra lệnh cắt cầu phao, khiến quân Thanh đạp nhau mà chạy, rớt xuống sông rất nhiều, làm nghẽn một khúc sông. Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả.
            Tôn Sĩ Nghị lại còn bị phục binh của Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc, may mà chạy thoát được. Vua Lê Chiêu Thống cũng hớt hãi chạy theo. Quân Tây Sơn lại nói rằng sẽ đuổi Tôn Sĩ Nghị qua bên kia biên giới, đến khi nào bắt được y mới thôi. Vì vậy, những người Tầu sống ở gần biên giới nước ta cũng bỏ chạy cả, cả một quãng đuờng mấy chục dặm không thấy một bóng người.
            Vua Quang Trung vào thành Thăng Long trưa ngày mồng 5 tết năm Kỷ Dậu. Hôm ấy, vua Quang Trung tự thân đốc quân đánh giặc, áo ngự bào dính thuốc súng đen như mực.
            Vua Quang Trung lấy được ấn tín của Tôn Sĩ Nghị, do y sợ chạy gấp quá không kịp mang theo, lại có cả thư của vua Càn Long viết cho Tôn Sĩ Nghị, dặn dò như sau:
            “Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau”.
Đọc thư xong rồi, vua Quang Trung nói với Ngô Thì Nhiệm: “Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được”.
Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư cho sứ mang cho nhà Thanh, đại khái nói rằng: “Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa.”

Việc thông sứ với nhà Thanh xong rồi, vua Quang Trung lo việc nội trị, bên cạnh đó là việc kiểm lại dân số, chờ ngày đòi lại đất Lưỡng Quảng.
            Vua Quang Trung ra lệnh cho các trấn xem lại sổ đinh, mỗi người có một cái thẻ tín bài gọi là “Thiên hạ Đại tính”. Cứ ba đinh, nhà vua chọn một lính. Nhà vua tổ chức lại quân đội, chia thành đạo, cơ, đội. Binh lính thường xuyên tập luyện.
            Bấy giờ có những người chống nhà Thanh bên Tầu chạy trốn qua nước ta đều được vua Quang Trung thu dụng, giúp đỡ cho bọn Tầu Ô để chúng quay trở lai quấy nhiễu nước Tầu. Những người theo Thiên Địa Hội bên ấy chạy sang ta cũng cho làm tướng.
            Năm 1792, (nhâm tí), vua Quang Trung sai sứ sang Tầu xin cầu hôn một công chúa cho nhà vua và đòi trả lại đất Luỡng Quảng là đất của nước ta ngày trước. Ý của nhà vua là đẻ thăm dò phản ứng của vua nhà Thanh như thế nào. Tiếc là vua Quang Trung phải bệnh mất thình lình, nên sứ của ta bèn dấu việc ấy, không cho nhà Thanh biết.
            Nước ta cũng không lấy lại được đất Lưỡng Quảng./
Bài đọc thêm
1)-Vua Quang Trung có bài chiếu cầu hiền, kêu gọi người có tài năng ra giúp nước, nội dung như sau:
Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?… Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn – sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình – sức một người không thể đảm đương”.

2)-Bà Hồ Xuân Hương có bài thơ chê Sầm Nghi Đống:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đến thái thú(2) đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

Đền Sầm Nghi Đống trước ở ngõ Sầm Công nay là phố Đào Duy Từ, Hà Nội. Sầm Nghi Đống là tướng theo Tôn Sĩ Nghị sang ta chiếm Thăng Long. Nghị bị vua Quang Trung đánh đuổi về Tàu năm 1789. Sầm Nghi Đống chạy không kịp, bị vây, thắt cổ tự tử. Nơi nầy về sau, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét