“Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…
Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!”
Viết cho những ai xem nhẹ lá Cờ Vàng, hãy đọc và suy ngẫm…
Sau
năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đã nhiều lần nghe những ý kiến
phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ và quốc ca Việt
Nam. Trong những dữ kiện và ý kiến được trình bày, có cái không đúng sự
thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra một số thắc mắc và hoang mang.
Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích trình bày một số dữ kiện lịch sử
xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam và đánh tan những luận điệu có
thể làm cho người quốc gia Việt Nam thắc mắc và hoang mang về lá quốc kỳ
và bài quốc ca của chúng ta.
A/ SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Việc
dùng một mảnh hàng hay vải có màu sắc và hình thức nhứt định để biểu
tượng cho một nhơn vật, một gia tộc lãnh đạo hay một cộng đồng chánh trị
đã có từ ngàn xưa. Trong các cuộc giao tranh dữ dội trên các bãi chiến
trường cổ kim, binh sĩ hai bên đối đầu nhau đều lấy cờ của bên mình làm
điểm hội tập và đều tận lực tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh
mạng để bảo vệ nó. Trong lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị,
việc cắm được cờ của mình trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân
lực địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ.
Tuy
nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, phần lớn các nước trên thế
giới đều theo chế độ quân chủ, hoặc là quân chủ chuyên chế trong đó chỉ
có một nhà vua nắm trọn quyền lãnh đạo và được xem là sở hữu chủ duy
nhứt của quốc gia, hoặc là quân chủ phong kiến trong đó bên dưới nhà vua
còn có những nhà quí tộc làm chủ các lãnh địa, và có khi có những thị
xã tự trị trong đó quyền điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa
phương. Một số cộng đồng chánh trị nhỏ thời đó đã theo chế độ cộng hòa
hay dân quốc. Với chế độ này, quyền lãnh đạo cộng đồng thuộc về một vài
thế gia cự tộc. Các cộng đồng chánh trị kể trên đây đều độc lập hoàn
toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chánh trị lớn hơn đều có lá cờ làm
biểu hiệu cho mình. Nhưng vì cộng đồng được xem là vật sở hữu của một
gia tộc hay một thiểu số gia tộc lãnh đạo nên lá cờ của cộng đồng cũng
được xem như là lá cờ của gia tộc hay các gia tộc đó.
Ý
niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện với
cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc gia không còn
được xem là vật sở hữu của một gia tộc, mà là vật sở hữu chung của toàn
thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng. Hệ luận của quan niệm mới này là lá
cờ một nước không còn là biểu tượng của gia tộc lãnh đạo, mà là biểu
tượng của toàn thể quốc dân. Người Pháp đã dùng từ ngữ “drapeau
national” để chỉ loại cờ này. Quan niệm của người Pháp lần lần được
người các nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh
đã dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ của mình. Drapeau
national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đã được người Việt Nam
chúng ta dịch là quốc kỳ.
Về
mặt thực hiện cụ thể thì lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam
sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể
trên đây. Sự hình thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng
giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xã Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng
gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng.
Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xã được hưởng quyền tự trị và có lá
cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi
lên làm cách mạng đòi hỏi chánh quyền cải tổ chế độ, họ vẫn còn chấp
nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt vì nhu
nhược, một mặt vì thiếu phương tiện nên không dùng võ lực đối phó một
cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp nhận các yêu sách
của nhơn dân Paris. Do đó, hai bên đã đồng ý nhau lấy cờ của hoàng gia
và cờ của thị xã Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là
quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở
giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xã Paris được ghép hai bên thành một
huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong
nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đã chánh thức biểu quyết lấy cờ
tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.
Phải
nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng
Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté – Égalité –
Fraternité là Tự Do – Bình Ðẳng – Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được
xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu xanh tiêu biểu cho Tự Do,
màu trắng tiêu biểu cho Bình Ðẳng và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ
tam sắc của Pháp đã đẹp mà còn được giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa
tượng trưng rất phù hợp với lý tưởng chung của nhơn loại nên quốc dân
Pháp đã nhiệt liệt hoan nghinh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho
mình. Về sau, nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng
Pháp đã chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích
hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lý tưởng
tự do, bình đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xã hội dân chủ tự
do.
B/ CÁC LÁ CỜ ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ
1/ Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên: Cờ Long Tỉnh của Hoàng Ðế Bảo Ðại
Ở
Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, các lá cờ
được dùng để biểu tượng cho một nhà lãnh đạo. Hiệu kỳ của một vị tướng
cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với mạng của vị tướng đó:
người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc thì cở màu xanh, người
mạng thủy thì cờ màu đen, người mạng hỏa thì cờ màu đỏ, người mạng thổ
thì cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại thì được các nhà sáng lập chọn
lựa theo sự tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia nghiên
cứu về sự thạnh suy của ngũ hành lưu chuyển trong vũ trụ sao cho triều
đại mình hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ chung của triều đại,
mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của mình. Nhưng các lá cờ này chỉ
để biểu tượng cho hoàng gia. Về ý niệm quốc kỳ biểu tượng cho cả dân
tộc Việt Nam, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách
thực dân Pháp.
Tuy
nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc
kỳ. Lúc ấy, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp và phải
dùng cờ tam sắc của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt (được gọi là Bắc Kỳ và
Trung Kỳ) trên lý thuyết là lãnh thổ của nhà Nguyễn. Các nhà vua Việt
Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng cho mình như thời còn độc lập, nhưng
cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự đến chớ không phải ở mọi
nơi trong nước và dĩ nhiên không có tánh cách một quốc kỳ. Mãi đến thời
Thế Chiến II, Hoàng Ðế Bảo Ðại mới ấn định quốc kỳ đầu tiên.
Nguyên
lúc đó, người Pháp đã thua Ðức và rất suy kém. Họ không còn đủ quân lực
để bảo vệ các thuộc địa xa xôi. Riêng ở Ðông Dương thì người Nhựt lợi
dụng sự suy kém của Pháp đòi quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để
lấy nó làm bàn đạp phong tỏa phía nam Trung Quốc và tiến đánh Ðông Nam Á
Châu với dụng ý chinh phục cả Á Châu. Chánh phủ Pháp không thể từ chối
lời đòi hỏi của Nhựt và viên Toàn Quyền thời đó là Ðề Ðốc Decoux có
nhiệm vụ phải chịu hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng
đến tối đa để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Ðông Dương. Ý thức rằng chánh sách
thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất mãn người Việt Nam mọi giới,
Toàn Quyền Decoux đã áp dụng một chánh sách hai mặt: một mặt triệt để
đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt xoa dịu người Việt Nam
nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ nhì trong chánh sách này, ông đã
có những biện pháp nâng cao uy tín của các nhà vua Ðông Dương.
Hoàng
Ðế Bảo Ðại nhơn cơ hội này đã đưa ra một vài cải cách và ban chiếu ấn
định quốc kỳ của nước Ðại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ long tinh, nền vàng
với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của sọc đỏ này bằng 1/3
bề ngang của cả lá cờ. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam,
nghĩa là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vì Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và
vẫn phải dùng lá cờ tam sắc của Pháp.
2/ Quốc kỳ thứ nhì: Cờ Quẻ Ly của chánh phủ Trần Trọng Kim
Chánh
quyền thuộc địa Pháp ở Ðông Dương đã bị quân đội Nhựt lật đổ ngày 9
tháng 3 năm 1945. Hai ngày sau, Hoàng Ðế Bảo Ðại tuyên bố độc lập. Chánh
phủ độc lập đầu tiên được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945 do nhà học
giả Trần Trọng Kim cầm đầu. Quốc hiệu được đổi là Ðế Quốc Việt Nam và
theo chương trình hưng quốc được chánh phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8
tháng 5 năm 1945 thì quốc kỳ được chọn gọi là Cờ Quẻ Ly. Cờ này cũng nền
vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Ly là một trong 8 quẻ của bát
quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền, bề rộng của
các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.
Cờ
quẻ Ly trên nguyên tắc là cờ của cả nước Việt Nam gồm có ba kỳ. Nhưng
trong thực tế, nhà cầm quyền quân sự Nhựt đã không trao trả Nam Kỳ ngay
cho triều đình Huế. Việc trao trả này chỉ thực hiện ngày 14 tháng 8 năm
1945, nghĩa là 4 ngày sau khi chánh phủ Nhựt quyết định đầu hàng Ðồng
Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Ðế Bảo Ðại thoái vị. Do đó, đại diện của
triều đình Huế chưa bao giờ được thật sự cầm quyền ở Nam Việt và Cờ Quẻ
Ly đã không được dùng ở đó.
Trong
thời gian từ ngày Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Việt Minh củng cố
được chánh quyền cộng sản ở Nam Việt thì cả lãnh thổ này không có quốc
kỳ. Lá cờ là điểm hội tập các phần tử quốc gia Nam Việt quyết tâm tranh
đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là cờ của Thanh Niên Tiền
Phong, một tổ chức được thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945, sau khi Nhựt
đảo chánh Pháp, để giúp vào việc cứu trợ những nạn nhơn của các cuộc
oanh tạc của Ðồng Minh và sau đó, tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào
miền Bắc bị nạn đói. Cờ của Thanh Niên Tiền Phong nền vàng, chính giữa
có ngôi sao đỏ. Nó không hề được xem là quốc kỳ, nhưng vì nó là cờ huy
động các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn đứng lên
tranh đấu với Quân Ðội Viễn Chinh Pháp đến xâm chiếm Nam Việt trở lại
nên tôi thấy có nhiệm vụ phải nhắc đến nó trong bài khảo cứu này về các
lá cờ đã được dùng ở Việt Nam.
3/ Cờ đỏ sao vàng của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam
Khi
cướp chánh quyền ở Bắc Việt hồi tháng 8 năm 1945, tập đoàn CSVN dưới
tên Việt Minh đã dùng cờ đỏ sao vàng. Cờ này sau đó được họ dùng ở những
nơi họ chiếm đoạt được và cho đến nay, vẫn được họ tiếp tục xem là quốc
kỳ.
4/ Cờ của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc
Khi
chiếm lại được các thành phố lớn ở Nam Việt, chánh quyền Pháp đã khuyến
khích phong trào Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, họ đã cho
thành lập Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc, tên Pháp là République de Cochinchine và
Cộng Hòa Quốc này đã có một quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở
giữa gần như quốc kỳ của ta hiện tại; nhưng thay vì ba sọc đỏ và hai hai
sọc vàng như quốc kỳ của ta, nó gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen
nhau. Xét về mặt thẩm mỹ, cờ này rất khó coi. Bởi đó, trong những bài
trào phúng trong báo Ðuốc Việt là cơ quan ngôn luận bán chánh thức của
Xứ Bộ Nam Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng lúc ấy, tôi đã đặt cho nó cái biệt
danh là lá cờ sốt rét.
5/ Quốc kỳ của chúng ta hiện nay
Quốc
kỳ của chúng ta hiện nay do một họa sĩ nổi tiếng thời Thế Chiến II là
Lê Văn Ðệ vẽ và đã được Cựu Hoàng Bảo Ðại chọn trong nhiều mẫu cờ khác
nhau được trình cho ông trong một phiên họp ở Hongkong năm 1948, gồm có
ông và đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo cùng một số thân hào
nhơn sĩ về phía người quốc gia Việt Nam. Như mọi người đều biết, nó có
nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa,
bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm
sọc bằng 1/3 bề ngang chung của lá cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ đã được dùng
làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam khi chánh phủ lâm thời Việt Nam được
thành lập ngày 2 tháng 6 năm 1948 dưới sự chủ tọa của Tướng Nguyễn Văn
Xuân. Nó đã tiếp tục được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt
Nam, cho đến ngày nay.
C/ Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ ÐÃ ÐƯỢC DÙNG LÀM QUỐC KỲ
Trong
các lá cờ mô tả trên đây, cờ vàng sao đỏ không hề được xem là quốc kỳ,
cờ sốt rét của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc chỉ là cờ của một chánh phủ bù nhìn
dùng trên bộ phận của nước Việt Nam. Vậy, đúng danh nghĩa quốc kỳ chỉ có
bốn lá cờ: cờ long tinh, Cờ Quẻ Ly, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN và
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người quốc gia Việt Nam. Lúc Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ra
đời, một số người đã gọi chung bốn lá cờ trên đây là cờ tứ linh: cờ
long tinh dĩ nhiên là cờ long, chữ ly trong Cờ Quẻ Ly đồng âm với ly là
con lân, cờ của tập đoàn CSVN được xem là qui vì nó có ngôi sao 5 nhánh y
như con rùa ló đầu và bốn chơn ra và quốc kỳ của chúng ta là phụng vì
nó có ba sọc đỏ nằm song song nhau như đuôi chim phụng.
1/ Ý nghĩa và màu sắc của bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ
Ðiều
đáng để ý là cả bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Việt Nam đều gồm hai
màu vàng và đỏ. Tuy nhiên, màu sắc của lá cờ CS nền đỏ sao vàng có ý
nghĩa hoàn toàn khác ba lá cờ về phía người quốc gia Việt Nam.
a) Ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN
Ðảng
kỳ của Cộng Sản Ðệ Tam Quốc nền đỏ trên có búa và liềm màu vàng. Quân
Ðội Cộng Sản Nga lúc nổi lên cướp chánh quyền thì lấy ngôi sao đỏ làm
biểu hiệu. Quốc kỳ của Liên Sô gồm huy hiệu của Ðảng và Quân Ðội nên
cũng nền đỏ trên có búa liềm vàng và ngôi sao đỏ. Nhưng muốn cho ngôi
sao đỏ hiện được trên nền đỏ của lá cờ, Cộng Sản Liên Sô đã phải dùng
một viền màu vàng bao quanh nó. CSVN đã phỏng theo cờ Liên Sô để làm
quốc kỳ. Nhưng năm 1945, họ còn phải giấu tánh chất cộng sản của họ nên
không dám để búa liềm trên quốc kỳ này và chỉ dùng ngôi sao tượng trưng
cho quân lực cộng sản. Ðiểm khác với Liên Sô là ngôi sao tượng trưng cho
quân lực CSVN màu vàng chớ không phải màu đỏ viền vàng.
Chúng
ta không nên quên rằng hai điều căn bản trong điều lệ của Ðảng Cộng Sản
Ðệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập là người tuyên thệ vào đảng này phải
xem Liên Sô là tổ quốc số một của mình và phải triệt để tuân lịnh cơ
quan lãnh đạo của Ðảng đặt tại Liên Sô. Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ,
Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đã biểu lộ ý muốn xem lực lượng quân sự
Việt Nam là một lực lượng phụ dịch cho Quân Ðội Liên Sô, và như vậy thì
dĩ nhiên nước Việt Nam Cộng Sản phải là một nước chư hầu của Liên Sô.
Ý
muốn này đã được thực hiện hoàn toàn sau năm 1975. Lúc CSVN chiếm được
Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã rút lực lượng quân sự khỏi Ðông Nam Á Châu
và sẵn sàng bắt tay với họ. Trung Cộng tuy không còn là thân hữu và có
những hành động chống đối họ, nhưng không có sự uy hiếp quân sự đáng kể.
Nếu CSVN giữ thái độ trung lập giữa Trung Cộng và Liên Sô, đồng thời tỏ
ra hòa hoãn với Hoa Kỳ, họ đã có thể nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để phát
triển kinh tế và dựa vào cả Hoa Kỳ lẫn Liên Sô để hóa giải áp lực Trung
Cộng. Nhưng tập đoàn CSVN đã công khai đứng về phía Liên Sô để gây hấn
với Trung Cộng và cho Liên Sô dùng Việt Nam làm một căn cứ quân sự chống
lại Trung Cộng, đồng thời uy hiếp lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.
Hiện nay, mọi người đều thấy rõ nước Việt Nam Cộng Sản là một chư hầu
của Liên Sô và lực lượng quân sự của CSVN chỉ là lực lượng phụ dịch của
Hồng Quân Liên Sô.
Tuy
những điều kể trên đây chỉ mới thể hiện sau này, nhưng ý đồ của tập
đoàn CSVN đã biểu lộ ngay từ lúc họ lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Vậy,
cờ đỏ sao vàng là biểu tượng của tinh thần vọng ngoại chấp nhận làm
thuộc hạ của Liên Sô. Nó hàm ý để cho Liên Sô có quyền can thiệp vào nội
bộ Việt Nam. Ðối với những ai cho rằng Ðảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế đã
bị giải tán năm 1943 nên Liên Sô không có quyền can thiệp vào việc nội
bộ các nước cộng sản chư hầu, chúng tôi xin nhắc lại rằng Ông Brezhnev,
Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Liên Sô khi biện minh cho việc Liên Sô can
thiệp vào việc nội bộ của các nước cộng sản Ðông Âu trong thập niên 1960
đã công khai nêu trước cộng đồng thế giới thuyết chủ quyền hạn chế theo
đó một nước xã hội chủ nghĩa đàn anh (tức là Liên Sô) có quyền can
thiệp vào việc nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa đàn em (trong đó dĩ
nhiên là có Việt Nam) để bảo vệ các nguyên lý của xã hội chủ nghĩa.
b) Ý nghĩa của màu vàng và màu đỏ của những quốc kỳ về phía người quốc gia
Màu
vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia thì có một ý nghĩa
hoàn toàn khác. Theo một số người Việt Nam, hai màu của các quốc kỳ về
phía người quốc gia biểu tượng cho dân Việt Nam da vàng máu đỏ. Tư tưởng
này có lẽ đã bị ảnh hưởng ít nhiều lối giải thích về ý nghĩa lá cờ nửa
vàng nửa đỏ mà Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã dùng trong cuộc khởi nghĩa Yên
Báy năm 1930. Nhưng lối giải thích trên đây không đúng đối với các quốc
kỳ Việt Nam về phía người quốc gia. Các quốc kỳ này thật sự có một ý
nghĩa sâu sắc hơn, liên hệ đến cả vũ trụ quan của dân tộc Việt Nam.
Trong
vũ trụ quan này, có sự liên hệ mật thiết giữa các màu sắc, phương hướng
và ngũ hành. Màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương. Vì thế, nó
vừa tượng trưng lãnh thổ, vừa tượng trưng cho uy quyền của nhà lãnh đạo
tối cao được xem là sở hữu chủ của lãnh thổ này. Các nhà vua Trung Hoa
xưa kia cho mình là kẻ làm chủ cả thiên hạ. Bởi đó, họ tự xưng là hoàng
đế đứng trên các vị quốc vương làm vua một nuớc, và nắm giữ độc quyền
dùng màu vàng làm y phục. Các nhà vua Việt Nam xưa kia vì thế yếu hơn
các nhà vua Trung Hoa và không muốn có những cuộc chiến tranh liên miên
với họ chỉ vì vấn đề danh phận nên đã phải chấp nhận làm chư hầu của
hoàng đế Trung Hoa với tước hiệu quốc vương. Nhưng trái với các nhà vua
Triều Tiên dùng tước hiệu quốc vương trong mọi trường hợp và không bao
giờ dám mặc y phục màu vàng, các nhà vua Việt Nam chỉ dùng tước hiệu
quốc vương trong sự giao thiệp với Trung Quốc, còn đối với thần dân
trong nước và đối với các nước láng giềng khác, họ đã tự xưng là hoàng
đế. Mặt khác, họ đã mặc y phục màu vàng y như nhà vua Trung Hoa. Như
thế, trong tâm thức tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam, việc dùng màu vàng
là biểu tượng cho một chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia, một nền độc
lập hoàn toàn đối với Trung Quốc.
Cũng
trong vũ trụ quan Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành
hỏa và chỉ phương nam. Do đó, dùng màu đỏ làm biểu tượng là nhấn mạnh
trên chỗ dân tộc ta là một dân tộc ở phương nam, đối chiếu với dân tộc
Trung Hoa ở phương bắc. Cùng với việc dùng màu vàng, nó nói lên quan
điểm của người Việt Nam tự xem mình là một dân tộc nắm trọn chủ quyền
của nước mình và ngang hàng với dân tộc Trung Hoa.
Quan điểm trên đây đã được Nguyễn Trãi nêu ra rất rõ trong đoạn đầu của bài Bình Ngô Ðại Cáo:
Như
ngã Ðại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi cương
vực ký thù, Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Ðinh Lý Trần chi
triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Ðường Tống Nguyên nhi các đế nhứt phương.
Ý nghĩa chánh xác của đoạn văn trên này là:
Như
nước Ðại Việt ta quả là một nước văn hiến. Bờ cõi núi sông (của nước ta
và Trung Quốc) đã phân biệt nhau mà phong tục (của chúng ta là) dân
phương nam cũng khác với phong tục (của người Trung Hoa là) dân phương
bắc. Từ nhà Triệu, nhà Ðinh, nhà Lý, nhà Trần xây dựng nước ta, (các vua
ta đã cùng các vua Trung Quốc của) nhà Hán, nhà Ðường, nhà Tống, nhà
Nguyên mỗi bên đều làm hoàng đế một phương.
Trong
bài này, chúng ta có thể nhận thấy rằng Nguyễn Trãi đã xem nhà Triệu là
một triều đại Việt Nam, mặc dầu theo phần lớn các sử gia hiện tại, đó
là một triều đại do người Trung Hoa thành lập. Như thế là vì Triệu Ðà là
người đầu tiên áp dụng nguyên tắc nhận làm chư hầu của Trung Hoa để
tránh việc tranh chiến, nhưng bên trong nước, vẫn tự xưng là hoàng đế,
nghĩa là tự xem mình ngang hàng với nhà vua Trung Hoa.
Dầu
quan điểm của chúng ta đối với nhà Triệu như thế nào thì lập trường
chung của dân tộc Việt Nam về sự độc lập hoàn toàn và chủ quyền nguyên
vẹn của quốc gia cũng đã được nêu rõ trong bài Bình Ngô Ðại Cáo và được
thể hiện rõ rệt với hai màu vàng và đỏ dùng trong các quốc kỳ được phía
người quốc gia chọn lựa. Vậy, hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ này
khác hẳn ý nghĩa của cờ đỏ sao vàng được tập đoàn CSVN dùng làm quốc kỳ.
Hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia đặt nền tảng
trên bài Bình Ngô Ðại Cáo, một bản văn được một nhà ái quốc Việt Nam
viết lên sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách đô hộ của người Trung
Hoa và biểu lộ tinh thần độc lập của dân tộc. Trong khi đó, cờ đỏ sao
vàng của tập đoàn CSVN biểu lộ tinh thần nô lệ, thần thuộc nước ngoài vì
đặt nền tảng trên nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản quốc tế ngày nay được
nêu rõ trong thuyết chủ quyền hạn chế của nhà lãnh tụ Liên Sô Brezhnev,
theo đó, Liên Sô có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước theo
xã hội chủ nghĩa để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
2/ Ý nghĩa đặc biệt của Cờ Quẻ Ly và Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Ngoài ý nghĩa chung về màu sắc nói trên đây, Cờ Quẻ Ly và Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ còn có những ý nghĩa riêng cũng rất sâu sắc.
a) Ý nghĩa Cờ Quẻ Ly
Như
chúng tôi đã nói trên đây, Ly là một quẻ của bát quái. Cũng như màu đỏ,
nó tượng trưng cho phương nam. Trong vũ trụ quan của Việt Nam và Trung
Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành hỏa, tượng trưng cho mặt trời hay lửa;
quẻ Ly cũng tượng trưng cho mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt
lực và về mặt xã hội thì tượng trưng cho sự văn minh.
Về
hình dạng thì quẻ Ly trên cờ của chánh phủ Trần Trọng Kim gồm một vạch
đỏ liền, một vạch đỏ đứt và một vạch đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly,
hiện lên một nền vàng gồm hai vạch liền và một vạch đứng nối liền hai
vạch ấy. Trong Hán văn, đó là chữ Công. Chữ công này được dùng trong các
từ ngữ công nhơn, công nghệ để chỉ người thợ và nghề biến chế các tài
nguyên để phục vụ đời sống con người. Vậy, ngoài ý nghĩa văn minh rạng
rỡ, quẻ Ly còn hàm ý ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của
dân tộc Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ.
b) Ý nghĩa Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
★ Ý nghĩa chánh trị:
Trong
lá quốc kỳ, nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam nói
chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ nằm trên nền
vàng hàm ý là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người
của cả ba kỳ.
Ngày
nay, sự thống nhứt của quốc gia và dân tộc Việt Nam là một điều không
ai phủ nhận được nên người Việt Nam hiện tại không ý thức được sự gay go
của cuộc tranh đấu đòi thống nhứt trong thập niên 1940, nhứt là ở Nam
Việt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ kỳ có nghĩa là một phần đất của một
quốc gia chớ không hàm ý một lãnh thổ biệt lập. Các từ ngữ Bắc Kỳ, Nam
Kỳ thật sự đã được triều đình Huế dùng lúc nước Việt Nam chưa bị người
Pháp xâm lăng để chỉ hai địa phương của một quốc gia thống nhứt. Sau khi
xâm chiếm Việt Nam, người Pháp mới tách Nam Kỳ ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam, rồi dùng từ ngữ Trung Kỳ để chỉ phần đất ở hai phía bắc và nam của
kinh đô Huế. Nam Kỳ được Pháp trực tiếp cai trị như một phần đất của
Pháp. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là lãnh thổ của nhà Nguyễn chịu sự bảo
hộ của Pháp, nhưng từ năm 1897, Pháp lại ép nhà vua Việt Nam phải giao
quyền đại diện mình cho một Thống Sứ Pháp thành ra Pháp đã can thiệp vào
sự cai trị đất này một cách trực tiếp hơn ở Trung Kỳ.
Trong
hệ thống tổ chức của Pháp trước Thế Chiến II, ba kỳ của Việt Nam đã
được xem như là ba lãnh thổ biệt lập. Sau Thế Chiến II, kế hoạch của
Pháp là thành lập một Liên Bang Ðông Dương gồm 5 nước là ba kỳ của Việt
Nam, Cam Bu Chia và Lào. Trong 5 nước này, Nam Kỳ là đất mà Pháp tha
thiết muốn nắm giữ dưới quyền thống trị của mình hơn hết vì nó đã được
họ trực tiếp cai trị từ năm 1867, lại là phần đat thạnh vượng trù phú
nhứt. Bởi đó, họ đã nhứt định không chấp nhận một nước Việt Nam thống
nhứt gồm cả ba kỳ. Tháng 3 năm 1946, họ đã cho thành lập Nam Kỳ Cộng Hòa
Quốc. Thiểu số người Việt Nam theo họ lúc đó đã chống lại quan niệm
Việt Nam thống nhứt một cách mạnh mẽ. Các phần tử quá khích trong nhóm
này đã xem đồng bào gốc Bắc Việt cư trú ở Nam Việt trong thời kỳ đó là
người của một nước địch và thường hành hung đối với các đồng bào ấy.
Trong các cuộc bố ráp hay chận đường xét giấy căn cước, họ thường bắt
người dân nói ba tiếng “Tân Sơn Nhứt”, người nào không nói đúng giọng
Miền Nam thì bị họ đánh đập một cách tàn nhẫn.
Sau
mấy năm tác chiến ở Ðông Dương, người Pháp ý thức rằng họ không thể áp
đặt ở Việt Nam một chế độ thống trị theo khuôn khổ họ đặt ra. Vì cần
dùng sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để có phương tiện tài chánh đối phó với CSVN,
họ phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ là nhìn nhận nền độc lập của
Việt Nam. Bởi đó, họ đã tiếp xúc và thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo Ðại.
Tuy nhiên, họ chỉ muốn cho Việt Nam hưởng một nền độc lập hình thức, và
thực quyền vẫn còn nằm trong tay họ. Mặt khác họ không chấp nhận sự
thống nhứt của Việt Nam và tìm mọi cách giữ riêng Nam Kỳ dưới quyền cai
trị trực tiếp của họ.
Nhờ
được Anh Nguyễn Tôn Hoàn từ Trung Hoa về cho biết về tình thế và nhận
chân rằng chỉ có Cựu Hoàng Bảo Ðại mới có thể đại diện cho người quốc
gia Việt Nam trong cuộc thương thuyết với Pháp nên Xứ Bộ Nam Việt của
Ðại Việt Quốc Dân Ðảng đã phát động phong trào đòi thi hành giải pháp
Bảo Ðại với một nước Việt Nam độc lập và thống nhứt. Lúc ấy, người Pháp
đã đàn áp phong trào này ở Nam Việt một cách mạnh mẽ. Một số đồng chí
của tôi trong đó có Anh Dương Quang Tiếp (sau này phục vụ trong Quân Ðội
và trong ngành cảnh sát với cấp bực đại tá và đã từ trần trong trại tù
cộng sản) đã bị Pháp bắt và đánh đập tàn nhẫn khi rải truyền đơn đòi thi
hành giải pháp Bảo Ðại.
Tuy
được sự yểm trợ của Hoa Kỳ trong cuộc thương thuyết, Cựu Hoàng Bảo Ðại
không nắm được ưu thế hoàn toàn đối với Pháp vì lúc đó, Trung Cộng đã
thắng thế hơn Trung Hoa Dân Quốc và CSVN có triển vọng được Trung Cộng
giúp đỡ trong tương lai. Người Pháp đã cho Cựu Hoàng Bảo Ðại biết rằng
nếu không thỏa thuận được với ông, họ sẽ thươn g thuyết với Hồ Chí Minh.
Nhận thấy thời gian không thuận lợi cho mình, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã phải
nhượng bộ cho Pháp về mặt độc lập, nghĩa là chấp nhận để cho Việt Nam ở
trong Liên Hiệp Pháp với những mối liên hệ chặt chẻ với Pháp, nhưng
cương quyết đòi Pháp phải nhận cho Việt Nam thống nhứt. Người Pháp đã
phải nhượng bộ ông về vấn đề này.
Nhưng
ngay đến lúc chánh phủ Pháp chấp nhận cho Nam Kỳ được sáp nhập vào lãnh
thổ Việt Nam, đám thực dân ở Nam Việt vẫn chưa chịu thua và nhiệt liệt
chống lại việc ay. Vì Nam Kỳ được xem là một lãnh thổ của Pháp mà theo
nền pháp lý của Pháp thì mọi quyết định liên hệ đến qui chế của đất này
phải có sự chấp thuận của một hội nghị địa phương tên là Hội Ðồng Lãnh
Thổ Nam Kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine), thực dân Pháp đã dự
liệu bỏ ra một số tiền lớn để mua chuộc những người Pháp và người Nam Kỳ
có quốc tịch Pháp được bầu vào Hội Ðồng đó biểu quyết chống lại việc
sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi đã biết được kế hoạch
này và đã nhiệt liệt chỉ trích nó trên hai tờ báo Ðuốc Việt (cơ quan
ngôn luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng) và
Thanh Niên (cơ quan ngôn luận chánh thức của một tổ chức do Xứ Bộ này
thành lập là Thanh Niên Bảo Quốc Ðoàn).
Sự
tố cáo của chúng tôi làm cho người Pháp rất căm tức. Tướng Boyer de la
Tour du Moulin, Ủy Viên Cộng Hòa Pháp ở Nam Kỳ lúc đó đã mời một đồng
chí của tôi là Anh Ðỗ Văn Năng, Thủ Lãnh Thanh Niên Bảo Quốc Ðoàn, đến
gặp ông và bảo rằng: “Xin ông nhớ cho rằng tôi là người Pháp có nhiệm vụ
bảo vệ quyền lợi của nước Pháp. Các hoạt động của đoàn thể ông có hại
cho quyền lợi này. Các ông phải chấm dứt nó hay ít nhứt cũng giảm thiểu
nó, nếu không, tôi buộc lòng phải đối phó một cách quyết liệt. Tôi sẽ
rất tiếc nếu phải làm như vậy, vì tôi lúc nào cũng tôn trọng ông là
người mà tôi nhìn nhận là rất đứng đắn. ”
Anh
Ðỗ Văn Năng đã điềm tĩnh trả lời: “Tôi rất cám ơn ông đã tỏ ra thành
thật với tôi, và tôi thấy có nhiệm vụ cũng phải thành thật đối với ông.
Xin ông hiểu giùm cho rằng ông yêu nước Pháp như thế nào thì tôi yêu
nước Việt Nam như thế ấy và ông có quyết tâm bảo vệ quyền lợi Pháp như
thế nào thì tôi cũng có quyết tâm bảo vệ quyền lợi nước Việt Nam như thế
ấy. ”
Sau
đó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến dịch tố cáo các âm mưu của thực dân
Pháp ở Nam Việt tìm cách phá hoại các giao ước giữa chánh phủ Pháp với
Cựu Hoàng Bảo Ðại về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Mặt khác, Cựu Hoàng Bảo
Ðại lúc ấy còn ở Âu Châu đã cho biết rằng ông chỉ chịu về nước lãnh đạo
chánh phủ nếu việc tái nhập Nam Kỳ vào lãnh thổ Việt Nam được xác định
một cách rõ rệt. Cuối cùng, các hội viên của Hội Ðồng Lãnh Thổ Nam Kỳ đã
không dám chống hẳn lại việc thống nhứt Việt Nam. Họ chỉ ghi thêm trong
quyết nghị biểu quyết ngày 23 tháng 4 năm 1949 chấp nhận để Nam Kỳ được
sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam một điều kiện là nếu có sự thay đổi
trong mối liên hệ giữa Việt Nam với Liên Hiệp Pháp thì Nam Kỳ sẽ lại
được quyền tự quyết định về số phận mình.
Ðám
thực dân Pháp ở Nam Kỳ rất thù hận chúng tôi về việc đã chống lại họ
một cách mãnh liệt về vấn đề thống nhứt Việt Nam. Do đó, họ ngầm thông
đồng với bọn công tác thành của CSVN và để cho một cán bộ trong bọn công
tác này là La Văn Liếm hạ sát Anh Ðỗ Văn Năng ở Sài Gòn vào những tháng
đầu năm 1950. Ngoài anh ra, chắc hẳn còn có nhiều người Việt Nam khác
thuộc các tổ chức ái quốc đã bị Pháp sát hại vì cuộc tranh đấu cho Việt
Nam thống nhứt.
Vậy,
đồng bào gốc Bắc Việt vào cư trú Nam Việt trước 1945 và người Nam Việt
chủ trương thống nhứt đã phải tranh đấu rất gay go, có người phải thiệt
mạng vì chủ trương này. Bởi đó, sọc đỏ thứ ba trên quốc kỳ tượng trưng
cho Nam Việt thật sự đã được tô bằng máu của nhiều nhà ái quốc và điều
này làm cho Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩa chánh trị sâu xa mà nhiều
người Việt Nam hiện nay không thấy được.
Một
quyết định khác của Quốc Trưởng Bảo Ðại khi ông mới về nước năm 1949
cũng có một ý nghĩa chánh trị ít ai được biết là việc chọn Sài Gòn làm
thủ đô. Vì là người kế thừa nhà Nguyễn nên Quốc Trưởng Bảo Ðại rất muốn
đặt chánh phủ thống nhứt của Việt Nam ở Huế là kinh đô cổ truyền của
triều đại mình. Nhưng lúc ấy, nhà cách mạng lão thành Trần Văn Ân đã bàn
với ông là nếu ông lấy Huế làm thủ đô, việc sáp nhập Nam Kỳ vào lãnh
thổ Việt Nam không được thể hiện rõ rệt đối với người Việt Nam và người
ngoại quốc và nền thống nhứt thâu hoạch được một cách gay go sẽ không
vững chắc. Ðặt thủ đô ở Sài Gòn để cho mọi chánh lịnh ban hành trong
toàn quốc Việt Nam phát xuất từ Nam Việt thì tánh cách thống nhứt của
nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan hiển hiện trước mắt và trong
tâm thức mọi người thành ra không ai còn hoài nghi hay phủ nhận sự
thống nhứt đó được nữa. Quốc Trưởng Bảo Ðại tán thành ý kiến trên đây
của Ông Trần Văn Ân và quyết định lập chánh phủ thống nhứt ở Sài Gòn,
mặc dầu ông không thích ở Sài Gòn vì chánh quyền Pháp lúc đó chịu giao
Phủ Cao Ủy ở Hà Nội cho ông mà lại giữ Phủ Cao Ủy ở Sài Gòn là Dinh
Norodom (sau này gọi lại là Dinh Ðộc Lập) thành ra tại Sài Gòn, Phủ Thủ
Tướng của Việt Nam kém bề thế hơn Phủ Cao Ủy của Pháp.
★ Ý nghĩa triết lý:
Về
mặt triết lý, trong bát quái, ba vạch liền là quẻ Càn, tượng trưng cho
trời, cho vua, cho cha và cho quyền lực. Ngày nay, chúng ta sống trong
chế độ dân chủ và quẻ Càn trên quốc kỳ có thể dùng để tượng trưng cho
quốc gia và dân tộc Việt Nam và sức mạnh của toàn dân ta.
3/ Cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng
★ So sánh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và cờ đỏ sao vàng về mặt thẩm mỹ:
Nói
chung thì trên một lá cờ gồm hai màu, một đậm, một lợt thì nếu màu đậm
quá nhiều và làm nền còn màu lợt quá ít và làm dấu hiệu phụ thuộc thì
màu lợt bị màu đậm tràn ngập và lá cờ trở thành tối. Trái lại, nếu màu
lợt nhiều hơn và làm nền còn màu đậm ít hơn và làm dấu hiệu phụ thuộc
thì màu đậm in rõ lên nền màu lợt và cả hai màu đều sáng chói.
Quốc
kỳ của tập đoàn CSVN gồm một ngôi sao vàng nhỏ trên nền đỏ, màu vàng
của ngôi sao bị nền đỏ sậm hơn tràn ngập nên chỉ hiện lên như một tia
sáng yếu ớt và cả lá cờ xem rất tối.
Quốc
kỳ của người quốc gia chúng ta trái lại, dùng màu vàng làm nền và ba
sọc đỏ sậm hơn đã hiện rõ lên nền vàng này thành ra cả hai màu đều tươi
sáng. Vậy, chỉ xét riêng về mặt thẩm mỹ, quốc kỳ của chúng ta tươi đẹp
hơn quốc kỳ của tập đoàn CSVN rất nhiều.
Ðiều
đó cũng không có chi lạ. Quốc kỳ của chúng ta do một họa sĩ nổi tiếng
vẽ ra, còn cờ của tập đoàn CSVN chỉ là sự mô phỏng nô lệ cờ một đế quốc
có chủ trương sắt máu và không có ý thức gì về cái đẹp.
★ So sánh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với cờ đỏ sao vàng về mặt triết lý:
Nếu
lấy nền triết lý cổ truyền của dân tộc Việt Nam làm căn bản để phán
đoán thì Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của chúng ta cũng có một ý nghĩa tốt đẹp hơn
cờ đỏ sao vàng nhiều. Theo quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam, màu vàng
thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và vì hỏa sanh thổ nên hai màu
này rất hợp với nhau. Nhưng trên cờ đỏ sao vàng, màu đỏ quá nhiều, màu
vàng quá ít, cũng như khối lửa lớn hay một ánh nắng gay gắt nung đốt một
hòn đất nhỏ thành ra hòn đất bị khô cằn đi. Trong khi đó, trên Cờ Vàng
Ba Sọc Đỏ, ba sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một mặt đất rộng
rãi làm cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc
lên được.
Ý
nghĩa về triết lý trên đây thật ra cũng phù hợp với bản chất của chế độ
chánh trị hai bên. Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn diện đè
ép nhơn dân, phủ nhận các quyền lợi căn bản của con người, làm thui chột
các sáng kiến nên không thể phát triển được. Dưới quyền của tập đoàn
CSVN, nước Việt Nam đã trở thành một mảnh đất cằn cỗi không sinh khí và
xã hội Việt Nam lọt vào sự đói khổ cùng cực. Chế độ quốc gia dung nạp sự
tự do, tôn trọng các quyền lợi căn bản của con người và khuyến khích
sáng kiến nên mặc dầu các nhà lãnh đạo về phía quốc gia đã phạm nhiều
lỗi lầm trầm trọng, mặc dầu CSVN đã gây nhiều tàn sát và phá hoại, phần
lãnh thổ Việt Nam do người quốc gia điều khiển đã là một mảnh đất đầy
sinh khí và nhơn dân Việt Nam trên lãnh thổ này đã hưởng một nếp sống
tương đối tự do và trù phú hơn.
D/ VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC KỲ
1/ Các lập luận đưa ra để phủ nhận Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Sau
năm 1975, trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại có một số người chủ trương
phủ nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Trong số những người này, có kẻ bảo rằng
đó là cờ thua trận, có kẻ bảo rằng đó là một lá cờ của một chế độ tham
nhũng thúi nát, có kẻ cho rằng đó là cờ của Bảo Ðại, cờ của Ông Ngô Ðình
Diệm hay cờ của Ông Nguyễn Văn Thiệu là những người lãnh đạo mà họ cho
là không xứng đáng.
2/ Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc kỳ
Thật
sự thì quốc kỳ một nước thường có ý nghĩa sâu xa liên hệ đến văn hóa và
lịch sử dân tộc. Dầu cho nó do ai chọn lựa và chọn lựa như thế nào thì
một khi đã được dùng làm quốc kỳ, nó cũng không còn có thể được xem là
của cá nhơn nào mà phải được xem là của toàn thể nhơn dân trong nước.
Bởi đó, số phận quốc kỳ không thể cột buộc vào số phận một nhà lãnh đạo,
vào những ưu khuyết điểm của một chế độ hay vào sự thắng bại trong một
cuộc tranh đấu. Trong lịch sử thế giới, không ai chủ trương phủ nhận
quốc kỳ của mình hay thay đổi nó vì các lý do trên. Việc thay đổi quốc
kỳ chỉ được đặt ra khi trong nước có những quan niệm chánh trị mới hoàn
toàn khác quan niệm làm căn bản cho chế độ quốc gia.
Như
chúng tôi đã nói trên đây, lá quốc kỳ đầu tiên được dùng trên thế giới
là cờ tam sắc của Pháp. Nó là kết quả một sự tương nhượng giữa hoàng gia
Pháp và nhơn dân thị xã Paris. Sau đó, nhà vua Louis thứ XVI của Pháp
đã chống lại Cách Mạng và bị xử tử, nhưng chánh phủ cách mạng Pháp vẫn
chánh thức lấy lá cờ tam sắc làm quốc kỳ.
Lúc
dòng vua chánh thống của Pháp được đưa lên ngôi báu trở lại, họ đã dùng
lá cờ trắng có hoa huệ vàng của hoàng gia làm quốc kỳ, nhưng cờ này chỉ
được dùng từ năm 1816 đến năm 1830. Với cuộc Cách Mạng 1830, dòng
Orléans được đưa lên thay dòng vua chánh thống và cờ tam sắc đã được
dùng làm quốc kỳ trở lại.
Năm
1848, dòng Orléans lại bị lật đổ. Một số nhà cách mạng tả khuynh thời
đó đã chủ trương dùng cờ đỏ thay cờ tam sắc làm quốc kỳ, nhưng sau một
bài diễn văn cảm động của thi hào Lamartine, người Pháp đã quyết định
giữ cờ tam sắc. Lúc ấy, người Pháp lập Ðệ Nhị Cộng Hòa. Nhưng người đầu
tiên được bầu làm Tổng Thống của nền cộng hòa này lại là cháu của Hoàng
Ðế Napoléon thứ I. Năm 1850, ông đảo chánh để lên ngôi hoàng đế với danh
hiệu Napoléon thứ III. Ðến năm 1870, vì gây chiến với Ðức và bị thảm
bại nên ông phải thoái vị.
Quốc
Hội Pháp được bầu vào lúc đó gồm nhiều người bảo hoàng muốn tái lập chế
độ quân chủ và tôn làm quốc vương Bá Tước Chambord, người lãnh đạo dòng
vua chánh thống từ năm 1836. Nhưng Bá Tước Chambord đòi hỏi phải bỏ cờ
tam sắc để lấy cờ trắng thêu hoa huệ vàng làm quốc kỳ. Những người bảo
hoàng nhiệt tâm nhứt đều biết rằng quốc dân Pháp lúc đó không chấp nhận
cờ trắng thêu hoa huệ vàng thay cờ tam sắc nên cố thuyết phục Bá Tước
Chambord bỏ ý định của ông. Thống Chế Mac Mahon là một lãnh tụ bảo hoàng
đã bảo rằng, “Nếu dùng lá cờ trắng thay lá cờ tam sắc thì không cần ai
bấm cò, súng cũng tự nổ.” Vì Bá Tước Chambord vẫn khăng khăng phủ nhận
lá cờ tam sắc nên cuối cùng phe bảo hoàng phải từ bỏ chủ trương tái lập
chế độ quân chủ.
Thời
Thế Chiến II, Thống Chế Pétain đã chịu đầu hàng người Ðức trong khi
Tướng De Gaulle chạy sang Anh kêu gọi người Pháp kháng chiến. Lúc ấy, có
hai lực lượng Pháp đối đầu nhau và cả hai đều dùng lá cờ tam sắc. Ðể
phân biệt hai bên, Tướng De Gaulle chỉ dùng một cây thánh giá Lorraine
gồm hai nhánh ngang và một nhánh dọc đặt trên cờ để làm hiệu kỳ cho Lực
Lượng Pháp Quốc Tự Do (LLPQTD) của ông. Ðến khi giải phóng được nước
Pháp, ông đã không vì cớ cờ tam sắc đã bị Thống Chế Pétain dùng trong
khi đầu hàng Ðức để xin thay đổi nó. Do đó, cờ tam sắc vẫn là quốc kỳ
của Pháp và lá cờ có dấu thập tự Lorraine chỉ được xem là hiệu kỳ của
LLPQTD.
Nói
chung lại thì từ năm 1789, ở Pháp có ba quan niệm chánh trị căn bản thể
hiện bằng ba lá cờ: quan niệm quân chủ chánh thống với cờ trắng thêu
hoa huệ vàng, quan niệm cách mạng tả phái với cờ đỏ và quan niệm dân chủ
tự do với cờ tam sắc. Cờ tam sắc biểu tượng được lý tưởng chung của đa
số dân Pháp nên đã được chọn làm quốc kỳ và các mưu toan thay đổi nó đều
không thành tựu được.
3/ Nhiệm vụ người quốc gia Việt Nam đối với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ
Người
quốc gia Việt Nam ta may mắn có một lá quốc kỳ rất đẹp và oai hùng.
Phải thấy cờ này bay phấp phới trên một nền trời trong xanh mới thấy hết
cái đẹp oai hùng đó. Mặt khác, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mang nhiều ý nghĩa
triết lý và chánh trị tuyệt hảo, hơn hẳn lá cờ đỏ sao vàng chống đối lại
nó. Từ khi Quốc Gia Việt Nam được công nhận là một nước độc lập, Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ đã được nhiều quốc gia trên thế giới biết. Tại Việt Nam,
nó đã là biểu tượng hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn cũng như dân
sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đã được dùng để phủ
lên áo quan của nhiều trăm ngàn người đã chết vì Tổ Quốc Việt Nam. Như
vậy, nó là một bảo vật thiêng liêng đối với mọi người chúng ta.
Hiện
nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên
trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng
nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại
chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt
Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt
Nam chống lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền
vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia
Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi
ách Cộng Sản.
Việc
một hội đoàn Việt Nam dùng làm hiệu kỳ một lá cờ nền vàng ba sọc đỏ
trên có biểu tượng riêng cho mình là một điều hữu ích cho công cuộc
tranh đấu chống lại Cộng Sản. Khi Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (LMDCVN) áp
dụng nguyên tắc trên đây và thêm 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh trên Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ để làm đoàn kỳ của mình, một số người đã chỉ trích vì cho
rằng như vậy là bất kính đối với quốc kỳ. Nhưng sự thật không phải như
vậy. Việc dùng một biểu hiệu thêm vào quốc kỳ để làm hiệu kỳ cho một tổ
chức tranh đấu cho Tổ Quốc là một điều mà người các nước đã từng làm.
Như trên đây đã nói, khi thành lập LLPQTD để chống lại chánh phủ Pétain,
Tướng De Gaulle đã dùng một cây thập tự Lorraine thêm vào quốc kỳ Pháp.
Vậy, việc đoàn kỳ của LMDCVN là một quốc kỳ trên có 5 ngôi sao 5 nhánh
màu xanh chỉ hàm ý rằng LMDCVN là một tổ chức của VNCH tranh đấu dưới lá
quốc kỳ Việt Nam, và 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ để phân biệt nó
với những tổ chức tranh đấu khác nhưng cùng một mục tiêu chung.
Trong
khi chưa giải phóng được Việt Nam và chưa làm cho nó được chánh thức
dùng trở lại trên toàn cõi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt Nam ở hải ngoại
là làm cho cờ này vẫn được sử dụng ở mọi nơi có người quốc gia Việt
Nam, đặc biệt là trong những hoạt động có liên hệ đến người ngoại quốc.
Về mặt này, chúng ta phải ghi công cố Ðại Tá Ðỗ Ðăng Công, nguyên Tổng
Thư Ký của Phân Bộ Việt Nam trong Liên Minh Thế Giới Chống Cộng
(LMTGCC). Sau năm 1975, lúc CSVN vừa chiếm được Miền Nam Việt Nam, ban
tổ chức của liên minh này đã không còn dùng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trong các
phiên họp của họ. Nhưng bằng những lời lẽ hợp lý, cương quyết và cảm
động, cố Ðại Tá Ðỗ Ðăng Công đã làm cho họ thay đổi ý kiến và từ đó,
quốc kỳ của chúng ta đã được long trọng dùng chung với cờ của các nước
hội viên khác của LMTGCC ở mọi nơi.
Ngoài
ra, còn có những người khác cũng có những công tác tương tự. Khi đến
thuyết trình về vấn đề Việt Nam ở Viện Ðại Học OSU (Oregon State
University) tại Cornvallis ngày 30 tháng 11 năm 1987, tôi được biết rằng
các anh chị em sinh viên Việt Nam ở Viện Ðại Học này đã hai lần tranh
đấu với ban giám đốc để cho Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn được treo với tư cách
là quốc kỳ Việt Nam ở một hội trường trưng bày cờ các nước. Phía Canada
thì Cộng Ðồng Việt Nam đã tranh đấu để cho thị xã Toronto chấp nhận để
cho quốc kỳ Việt Nam được treo lên một tuần lễ mỗi năm tại kỳ đài của
thị xã vào dịp 30 tháng 4. Tại Los Angelès (California) thì Cộng Ðồng
Việt Nam đã được chấp nhận cho xây dựng một kỳ đài để quốc kỳ Việt Nam
sẽ được treo liên tục suốt năm. Tại San Jose (California), Cộng Ðồng
Việt Nam cũng sẽ xây dựng một kỳ đài tương tự. Ngoài ra, trong dịp Tết
Mậu Thìn, quốc kỳ Việt Nam đã được treo trong suốt một tuần lễ ở trụ sở
các tỉnh Santa Clara, thị xã San José và thị xã Milpitas.
Có
lẽ trên thế giới còn có những nơi mà đồng bào Việt Nam đã tranh đấu và
thành công trong việc làm cho quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ được cộng đồng
quốc tế chấp nhận treo lên mà chúng tôi không được biết nên không nêu ra
đây được. Riêng Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do (UBQTYTVNTD) thì
dĩ nhiên là chánh thức công nhận quốc kỳ này. Ngày 4 tháng 12 năm 1986,
khi tổ chức buổi hội thảo công khai đầu tiên của Ủy Ban, Ông Chủ Tịch
Paul Vankerkhoven đã đích thân kiểm soát việc trang trí phòng hội thảo.
Tại phòng này, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đã được treo chung với cờ các
quốc gia trong Cộng Ðồng Âu Châu và đặc biệt là được treo ở chỗ danh dự
là ngay bên hữu cờ Bỉ là cờ của nước chủ nhà. Chắc chắn là trong mọi
cuộc hội họp công cộng của UBQTYTVNTD mà có treo cờ thì quốc kỳ của
chúng ta sẽ được treo chung với cờ các nước khác.
Việc
quốc kỳ của chúng ta lần lần tái hiện bên cạnh cờ các quốc gia khác
trên thế giới là một dấu hiệu cho thấy rằng công cuộc tranh đấu để giải
phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản có những tiến triển khả quan. Hiện nay,
quốc kỳ này là biểu hiệu hội tập mọi người quốc gia Việt Nam: dầu có
bất đồng ý kiến, dầu có những hiềm khích đối với nhau, mọi người quốc
gia đều nên tôn trọng quốc kỳ và nếu mọi người đều quyết tâm tranh đấu
chung nhau hay ít nhứt cũng song song nhau thì một ngày không xa lắm,
quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ sẽ phấp phới bay trên mọi nóc nhà Việt Nam từ
mũi Cà Mau cho đến ải Nam Quan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét