Lê Nguyễn
Chủ nhật, 11/11/2018
Chương trình giáo dục trung và tiểu học thời Đệ nhất Cộng
hòa do Bộ Giáo dục soạn thảo chung cho tất cả các trường trên toàn quốc. Chương
trình này có tính ổn định lâu dài và chỉ có những thay đổi nhỏ trong quá trình
thực hiện. Thời đó, không có hai từ “giáo án” và cũng thực sự không có việc
giáo viên soạn thảo bài dạy theo một tiêu chuẩn nào, trình cho một giới chức
nào. Người dạy học thời đó dựa vào chương trình chính thức do Bộ Giáo dục soạn
thảo và dạy học sinh theo cách thức riêng của mỗi người, miễn sao trong kết quả
cuối năm, nhiều học sinh đạt điểm cao nhất trong môn họ đã dạy. Nếu có soạn thảo
“giáo án” chăng thì đó chỉ là những ghi chép riêng tư, sắp xếp ý tưởng giảng dạy
để tự nhắc mình cho bài giảng có hiệu quả.
Ở bậc Tiểu học, sách giáo khoa các lớp Đồng ấu, Dự bị và Sơ
đẳng (lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba) được Nha Học chính Đông Pháp soạn thảo thống
nhất cho cả nước từ các thập niên 1920-1930 và được áp dụng tại miền Nam cho đến
nửa sau thập niên 1950. Bộ sách có tên chung là “Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư”, gồm
nhiều đề mục khác nhau, sử dụng cho ba lớp sơ học: Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng, gồm
nhiều chuyên mục khác nhau: Quốc văn Giáo khoa thư; Luân lý Giáo khoa thư; Sử
ký – Địa dư Giáo khoa thư; Cách trí Giáo khoa thư; Vệ sinh Giáo khoa thư; Toán
pháp Giáo khoa thư… Ban soạn thảo các sách giáo khoa này gồm 4 vị có tên tuổi
và uy tín trong học giới: Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ
Thận.
Sách Quốc văn Giáo khoa thư lớp Sơ đẳng, bản in năm 1927
(Nguồn: thuongmaitruongxua.vn)
Tuy bộ sách có nhiều chuyên mục khác nhau, song được nhắc đến
nhiều nhất là bộ Quốc văn Giáo khoa thư, ấn tượng đầu đời sâu đậm nhất của những
người đi học vào thời kỳ chuyển tiếp giữa nền học cũ với nền học thời Đệ nhất Cộng
hòa. Dù ở lớp nào, các bài học cũng đều mang ý nghĩa nhân văn, đi dần từ những
bài dễ đọc, dễ hiểu ở lớp Đồng ấu và Dự bị đến những bài ở lớp Sơ đẳng, đòi hỏi
học sinh tập suy luận trước những vấn đề được đặt ra, từ những bài ở sách Quốc
văn Giáo khoa thư lớp Dự bị như Khuyến hiếu đễ; Người ta cần phải làm việc;
Làng tôi; Nên giúp đỡ lẫn nhau; Lễ phép với người tàn tật… đến những bài dành
cho lớp Sơ đẳng như Ai ơi chớ vội khoe mình; Lòng kính yêu chị; Chớ nên ham mê
cờ bạc; Không nên báo thù; Không nên khinh những nghề lao lực…
Hai
trang sách trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ đẳng in năm 1927.
Bên cạnh sách giáo khoa thường được các trường Tiểu học sử dụng,
còn có loại sách “Tập Đọc Vui” được soạn thảo và phát hành song song với sách
giáo khoa, gồm những bài đọc vui, bổ ích về mặt hình thành nhân cách cho trẻ
thuộc các lãnh vực: học đường, gia đình, thân thể, việc học và chơi… Trong tinh
thần “Tiên học lễ, Hậu học văn” áp dụng xuyên suốt trên cả nước, nền giáo dục
Tiểu học Đệ nhất Cộng hòa kế thừa nền giáo dục Hoàng Xuân Hãn năm 1945 và nguồn
sách giáo khoa của Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư do bộ tứ Kim-Ngọc-Phúc-Thận biên
soạn, coi trọng việc Đức dục ngang với Trí dục và Thể dục. Ấn tượng mạnh về bộ
sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư khiến những thế hệ ra đời từ thập niên 1950 trở về
trước luôn nhắc nhở đến chúng như một hoài niệm về thời thơ ấu, với những bài học
đáng nhớ là kim chỉ nam cho họ trong cách xử sự ở đời. Vào thập niên 1960 trở về
sau, dù không còn là sách giáo khoa cho học trò nữa, song Quốc Văn Giáo Khoa
Thư vẫn len lỏi vào ngóc ngách tâm hồn của nhiều thế hệ, vào cả trong tác phẩm
Hương Rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, với truyện ngắn Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư
nhắc đến những bài học không thể nào quên.
Khoảng thập niên 1990, nhà xuất bản trẻ TPHCM có sáng kiến
in lại mấy tập sách giáo khoa này, theo yêu cầu của những độc giả có tuổi muốn
tìm lại những hình ảnh của một thời học hành tuổi nhỏ. Nhiệt tình đó đáng ca ngợi,
song đáng tiếc là sách in lại bằng giấy trắng láng, hình ảnh thiếu sự đậm đà, sắc
nét khiến tác phẩm được phục hồi mất đi khá nhiều giá trị của sự hồi tưởng,
hoài niệm một thời đã qua.
Sách học Anh ngữ L’anglais vivant dành cho học sinh lớp Đệ
Thất thập niên 1950.
Nửa sau thời Đệ nhất Cộng hòa, khoảng năm 1958, Bộ Quốc gia
Giáo dục định ra các triết lý giáo dục gồm ba yếu tố cơ bản là: Nhân bản, Dân tộc
và Khai phóng, sách giáo khoa cho bậc Tiểu học được soạn mới, song vẫn giữ cốt
cách của Quốc văn Giáo khoa thư và Luân lý Giáo khoa thư.
Ở bậc Trung học, thời Đệ nhất Cộng hòa, Nha Tổng Giám đốc
Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục là cơ quan cao nhất thuộc Bộ Quốc gia Giáo
dục chịu trách nhiệm về việc dạy và học tại miền Nam. Cơ quan này bao gồm một số
đơn vị trực thuộc gồm: Nha Trung học, Nha Tiểu học, Nha Tư thục, Nha Khảo thí
và cơ quan Thanh tra. Tại cấp tỉnh, trong lúc các Ty Tiểu học trực thuộc chính
quyền địa phương theo hệ thống ngang (thuộc Nha Tiểu học theo hệ thống dọc),
thì các trường Trung học chỉ thống thuộc duy nhất Nha Trung học theo hệ thống dọc
mà thôi. Ở bậc học này, Bộ Quốc gia Giáo dục có một quan điểm khá thoáng về mặt
sách giáo khoa. Hầu như không có một bộ sách giáo khoa nào do cơ quan giáo dục
chính thống biên soạn và phát hành để thầy và trò dạy và học theo.
Thời đó, dù là giáo sư tư thục hay công lập, mọi giáo chức
có quyền dạy học sinh theo cách thức riêng của mình, không phải tuân theo một
phương pháp giảng dạy nào, miễn sao tôn trọng đúng nội dung chương trình giáo dục
do Bộ Quốc gia Giáo dục soạn thảo, giúp học sinh đạt được kết quả như ý trong
các kỳ thi. Trên thị trường, nhiều sách giáo khoa (hay sách tham khảo) được bày
bán, do các giáo sư tư thục lẫn công lập biên soạn. Mỗi tác giả có cách biên soạn
của riêng mình, sách nào hay hoặc phù hợp với chương trình dạy và học sẽ được
nhiều giáo chức tham khảo trong giảng dạy, học sinh tìm mua để đọc thêm.
Những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, về quốc
văn, loại sách “Luận đề văn chương” của các giáo sư tư thục Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn
Duy Diễn, Nguyễn Văn Mùi… tràn ngập thị trường, được giới dạy văn và học sinh
tham khảo nồng nhiệt. Mỗi sách luận đề khảo về văn chương của một tác giả cổ điển
như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến…, sách khổ nhỏ,
không dày, viết cô đọng, được cả thầy và trò ưa chuộng. Bản thân người viết bài
này được làm học trò môn văn năm Đệ tứ (1958 – 1959) với giáo sư Nguyễn Duy Diễn,
người đã mang lại cho cậu thiếu niên 14-15 tuổi một tình yêu nồng nàn đối với
môn văn học nước nhà. Tiếc rằng thầy mất quá sớm, khoảng giữa thập niên 1960,
khi tuổi đời còn trẻ.
Sách “Luận đề văn chương” thời Đệ nhất Cộng hòa.
Với môn Văn, ngoài loại sách luận đề văn chương, còn có các
sách quốc văn dành tham khảo của giáo sư Dương Quảng Hàm (1898 – 1946) (Việt
Nam Văn Học Sử Yếu, Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển), của các giáo sư Hà Như Chi, Phạm
Thế Ngũ, Phan Ngô … Về lịch sử – địa lý có sách của ông bà giáo sư Tăng Xuân
An, giáo sư Nguyễn Văn Mùi…; sách toán của các giáo sư Đinh Qui – Bùi Tấn – Lê
Nguyên Diệm, Bùi Hữu Đột… sách ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ, có loạt sách
L’anglais vivant của nhà xuất bản Ziên Hồng được nhượng quyền khai thác từ nhà
Hachette của Pháp… Thông thường, các nhà biên soạn sách giáo khoa đã được thị
trường chấp nhận và tác phẩm của họ được sử dụng rộng rãi trong việc giảng dạy
của các thầy cô và thỏa mãn nhu cầu tham khảo của các em học sinh trung học. Sự
chọn lọc, đào thải của thị trường sách giáo khoa giúp các giáo chức, học sinh
tìm được những sách đứng đắn, có chất lượng để dạy và học.
Ở bậc Đại học, với chủ trương một nền đại học tự trị, chính
quyền Đệ nhất Cộng Hòa dành cho các viện Đại học Sài Gòn và Huế một quyền hạn rộng
rãi trong việc sắp xếp chương trình giảng dạy, bố trí một đội ngũ giáo sư đại học
phù hợp. Thông thường sách giáo khoa ở bậc học này do chính giáo sư các bộ môn
soạn thảo và giảng dạy, không thông qua những tác giả trung gian khác.
Ở trường Đại học Luật khoa, có thể tham khảo, học tập sách của
các giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thạc sĩ Luật, từng đảm nhận chức vụ Ngoại trưởng trong
chính phủ Ngô Đình Diệm; Vũ Quốc Thúc, Thạc sĩ Kinh tế, Khoa trưởng trường Đại
học Luật khoa; Nguyễn Độ, Tiến sĩ Hành chánh công (1952); Vũ Quốc Thông (Thạc
sĩ Luật, từng làm Bộ trưởng Y tế, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh trước
1.11.1963); Nguyễn Văn Bông (Thạc sĩ Công pháp Quốc tế, sau ngày 1.11.1963 được
cử làm Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh)…; ở Đại học Văn khoa có sách của
các giáo sư Nguyễn Đăng Thục, dạy chủ yếu môn Triết học Đông phương, Nguyễn Khắc
Hoạch, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào… Ở các phân khoa Khoa học,
Y khoa, Dược khoa… bài giảng và sách học được soạn chủ yếu dựa vào các tài liệu
khoa học phổ biến ngoài nước. Cần nói thêm là hầu hết các giáo sư đại học tại
miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa xuất thân từ các trường đại học Pháp, và theo chế
độ giáo dục của nước này, bằng Thạc sĩ là bằng cấp cao nhất, trên bằng Tiến sĩ
một bậc.
Hầu hết sách giáo khoa các bậc học Tiểu học, Trung học và Đại
học thời Đệ nhất Cộng hòa đều theo khuynh hướng phi chính trị hóa, chú trọng chủ
yếu đến việc rèn luyện con người trên các mặt Đức, Trí và Thể dục. Người viết
sách giáo khoa cung ứng cho thị trường không bị một áp lực nào hay phải tuân
theo một sự chỉ đạo nào. Đối tượng chủ yếu mà họ nhắm đến là các giáo chức cần
tài liệu để hoàn thiện sự giảng dạy, đội ngũ học sinh, sinh viên cần tham khảo
thêm ngoài các bài giảng ở trường.
Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét